THẾ GIỚI THẦN TIÊN (The Real World of Fairies)
THẾ GIỚI THẦN TIÊN
The Real World of Fairies, Dora van Gelder
Thanh Thiên dịch
Để tìm hiểu thêm về tinh linh và thiên thần, xin giới thiệu cùng bạn đọc quyển The Real World of Fairies, tác giả Dora van Gelder còn gọi là Dora van Kunz. Bà có thông nhãn và đã dùng khả năng vào nhiều việc như cùng bác sĩ định bệnh, chữa bệnh, đưa ra trị liệu, với kết quả được trình bầy trong nhiều tác phẩm. Quyển The Human Aura của bà cho ta biết nhiều về các thể thanh của con người. Thuở nhỏ bà sống cùng cha mẹ tại Java, may mắn là mẹ của bà cũng có thông nhãn nên khả năng của Dora được chấp nhận và cho nẩy nở tự nhiên, sau đó ông C.W. Leadbeater huấn luyện thêm, lúc cuối đời bà là Hội Trưởng Xứ Bộ Hoa Kỳ. Để nói chuyện với dân cư của thế giới thần tiên, bà không thốt bằng lời như con người dùng mà tạo một hình tư tưởng mạnh mẽ, còn khi sinh vật muốn liên lạc, chúng vỗ nhẹ lên trán hay lên tay bà, tựa như lá rụng chạm người. Ấy là lúc tinh linh muốn bà chơi với mình hay nhìn vào bụi hoa, lùm cây của sinh vật.
CHƯƠNG I Giới Thiệu
CHƯƠNG II Trò Chuyện với Dân Cư Thần Tiên
CHƯƠNG III Một Tinh Linh Mẫu
CHƯƠNG IV Đời Sống Tinh Linh
CHƯƠNG V Tinh Linh Đất
CHƯƠNG VI Tinh Linh Vườn
CHƯƠNG VII Tinh Linh Cây
CHƯƠNG VIII Tinh Linh Núi
CHƯƠNG IX Tinh Linh Nước
CHƯƠNG X Tinh Linh Lửa
CHƯƠNG XI Tinh Linh Không Khí
CHƯƠNG XII Bão Biển
CHƯƠNG KẾT Hiện Trạng Ngày Nay
CHƯƠNG I
Giới Thiệu
Nhiều người vẫn hằng tin tưởng hay vẫn muốn tin tưởng rằng có tinh linh. Các chú lùn của tuổi ấu thơ êm đềm mà ta thường vui vẻ nhớ lại, được coi là thành phần của một thế giới thanh nhẹ hơn cõi trần. Nhưng với đa số người, nó được coi là thế giới tưởng tượng. May thay không phải ai cũng nghĩ vậy, vì riêng cá nhân tôi và nhiều người khác nữa đã có dịp thấy đủ mọi loại tinh linh; từ khi có trí nhớ cho đến bây giờ tôi vẫn thấy chúng hằng ngày. Khi dùng chữ ‘thấy’, tôi muốn nói là chúng ở ngoài tôi, tựa như cây cối ở ngoài tôi, và tôi nhìn chúng như nhìn mọi vật khác.
Trong những trang sau tôi sẽ ráng kể cho bạn nghe về những sinh vật hồn nhiên đó, làm chúng sống thực. Tốt nhất tôi nên nói cho bạn nghe một cách rõ ràng tại sao tôi lại có khả năng đặc biệt về chuyện này. Một lý do là bởi sinh ra ở đông phương, tôi không bao giờ bị cấm cản trong việc quan sát các tinh linh cả; cũng như nhiều người khác ở đó cũng có khả năng thấy được như tôi, và lại có đông người hơn nữa tin là có thế giới thần tiên. Vì lý do này và vài lý do khác, cái khả năng thường gặp nơi trẻ vẫn tiếp tục linh hoạt nơi tôi. Lại nữa trong kiếp này khi sinh ra, tôi có may mắn là trong gia đình và bạn bè có nhiều người cũng ‘thấy’ được. Rồi việc di chuyển đó đây làm cho sự quan sát của tôi được thêm phong phú. Vì thế những gì tôi kể ra đây không phải là chuyện tưởng tượng của một đứa trẻ ít bạn. Đó là dữ kiện được thu góp từ những lần tiếp xúc và nói chuyện với tinh linh ở khắp nơi trên thế giới, trong những trường hợp hoàn toàn tự nhiên dù có hơi khác thường. Bạn nói chuyện được với tinh linh cũng giống như nói với người khác vậy, hơn nữa, cho dù cách nói có tí chút khác biệt - tôi sẽ giải thích về sau - vì nó nhanh hơn lời nói và ít ra về một số khía cạnh, nó cũng là cách chuyện trò chính xác.
Những chuyện này quan trọng cần được nói rõ, vì nếu ta nhìn cảnh vật theo nhãn quan của tinh linh, ta sẽ thấy một thế giới khác hẳn. Có nhiều chuyện với ta rất là quan trọng thì ngược lại với tinh linh chẳng quan trọng chút nào. Tỉ dụ như sự sống và sự chết là những chuyện tinh linh biết rất rõ. Đối với chúng việc không có chút mơ hồ hay thảm cảnh gì. Con người thường hay bám víu vào sự sống và sự chết. Tinh linh thì khác, chúng thực sự thấy sự sống luôn tuôn tràn trong vạn vật. Chúng ta sống trong thế giới hình thể mà không hiểu cái lực sống tiềm ẩn bên trong các hình hài đó. Với ta, mất đi hình dạng bên ngoài đồng nghĩa với việc chấm dứt sự sống, nhưng tinh linh thì không lầm lẫn như vậy. Chúng cho ta một bài học sâu sắc và mạnh mẽ về ý niệm này.
Tại sao đa số người không thấy được tinh linh ? Chúng sống trong cùng thế giới với chúng ta, nhưng thể chất của chúng loãng nhẹ hơn của ta, tuy chỉ nhẹ hơn khí đặc một chút. Tôi tin chắc rằng tấm màn ngăn cách giữa ta và chúng rất là mỏng manh, mỏng đến độ gần như bất cứ ai cũng nhìn thấu qua được, chỉ cần một chút cố gắng theo đúng phương pháp. Việc khó khăn là trình bày phương pháp này, và nhất là làm sao cho người đọc hiểu được nó. Về lý do tại sao ta không thấy được tinh linh, điểm chắc chắn là có sự khác biệt về quan điểm của mỗi người. Như vậy những gì tôi viết ra đây có thể giúp chúng ta thay đổi cách nhìn với thế giới của tinh linh, và giúp cho càng lúc càng có thêm nhiều người thấy được chúng.
Và không phải chỉ có thế. Nếu ta muốn thấy tinh linh thì cần khơi dậy một giác quan đặc biệt. Thế giới thần tiên, nơi tinh linh sống không ảnh hưởng trực tiếp lên ngũ quan của ta. Ta không thể sờ chạm hay cảm nhận được chúng, nhưng chắc chắn là ta có thể thấy chúng. Thực ra thì nhãn quan thông thường cũng giúp thấy được tinh linh, nhưng nó chưa đủ tinh tế để bắt được ánh sáng từ tinh linh toát ra. Dù gì đi nữa, ai trong chúng ta cũng đều có tiềm ẩn trong người một nhãn quan tinh vi hơn mắt thường, và số khá đông người đã linh hoạt được giác quan ấy, dùng nó để quan sát đời sống của thế giới thần tiên. Ngũ quan cho ta biết nhiều thứ, sờ chạm cho biết cứng mềm, nếm cho biết đặc lỏng, ngửi cho biết về khí, cái nhìn lại tế nhị hơn nữa, và không phải ngũ quan là tất cả. Còn một khả năng nhìn đặc biệt gọi là thông nhãn clairvoyance, nhìn thông suốt sự vật - clear seeing.
Sự thực là thông nhãn có căn bản vật chất rõ ràng, không có gì bí ẩn lạ lùng. Khả năng ấy trụ ở một bộ phận rất nhỏ trong óc gọi là tuyến não thùy - pituitary body. Làn rung động mà thông nhãn bắt được rất là tinh tế, không cần cơ quan tiếp nhận ngoài da mà vẫn truyền được vào tuyến. Nhưng có một điểm đặc biệt rất nhạy nằm giữa hai con mắt ở đầu sóng mũi, có tác dụng như là cửa ngõ dẫn vào bên trong tuyến. Cảm giác khi ta nhìn từ điểm này thì cũng y như nhìn bằng mắt thường. Khi muốn nhìn vào thế giới thanh nhẹ của tinh linh và các sinh vật khác, ta chỉ cần tập trung tư tưởng một chút vào nơi ấy, và cảm quan đáp ứng như ta mở mắt vậy (trong trường hợp này chỉ có một mắt độc nhất mà thôi).
Tôi được biết đại khái là ở loài vật ban sơ thủy tổ của loài người, có đường nối liền giữa tuyến não thùy với cơ quan tiếp nhận ngoài da. Tuyến hiện nay được coi là di tích mất hoạt động từ ngày ấy. Nhưng y khoa biết nó vẫn còn tiết ra chất có ảnh hưởng mạnh mẽ lên sự tăng trưởng và các phận sự khác của cơ thể, mà không phải là vật thừa vô dụng. Như vậy tuyến não thùy này còn rất sống động và quan trọng cho con người. Và chắc chắn là nó cảm nhận được những làn rung động tinh tế từ thế giới thanh nhẹ hơn của chúng ta. Tôi ước sao có thể giải thích rõ ràng hơn, và chắc dưới đây là lời dễ hiểu nhất.
Có thể vì một lẽ gì đó mà giác quan này chưa sẵn sàng cho con người thúc ép nó linh hoạt. Bất cứ sự cưỡng ép mãnh liệt nào nhằm thúc đẩy thiên nhiên đi trước kỳ hạn của nó, cũng sẽ gây nguy hiểm trong nhiều trường hợp. Nhiều người đã tự thúc đẩy mình mong có thông nhãn bằng cách sử dụng ý chí, thuốc kích thích, hoặc bằng phép luyện tập khác. Tuy nhiên nếu nó phát triển theo cách không tự nhiên, thường thường nó không an toàn; nhưng không phải vì vậy mà tính cách xác thật của thông nhãn bị ảnh hưởng, trong trường hợp khả năng ấy phát triển bình thường.
Người ta sẽ hỏi là tại sao đa số không nhìn thấy được tinh linh. Tôi chắc một phần của câu trả lời là gần như không ai thử nhìn tinh linh khi đã trưởng thành, hoặc ngay khi còn bé cũng vậy, và phần sau của câu trả lời là một số ít người biết là tinh linh luôn luôn có đó, nhưng lại không ráng thấy chúng bằng cách đúng đắn. Tôi sẽ nói thêm vài điều về việc này ở sau, còn thì điều chắc chắn là tôi thấy được tinh linh. Tôi có thể thấy chúng khi nhắm mắt nhưng thường thì tôi không nhắm mắt vì không cần; về mặt khác, khi dùng thông nhãn nhìn rõ tinh linh rồi thì mắt thường sẽ giúp nhiều trong việc quan sát chi tiết. Có nhiều tinh linh sinh hoạt rất gần với nhãn quan thường nên dùng mắt trần quan sát chúng sẽ dễ hơn. Chỉ có điều tôi không biết là tinh linh phát ra ánh sáng gì từ cơ thể chúng - bởi sinh vật luôn sáng rực - do tôi không phải là vật lý gia, mà nếu tôi là vậy, thì dụng cụ nào sẽ được dùng để nghiên cứu về chất thanh bai như thế ?
Một người bạn có đầu óc khoa học đã đề nghị là tôi hãy thử nhìn tinh linh với kính, và không kính, để thí nghiệm về loại ánh sáng phát ra. Tôi làm thử và nghiệm thấy tinh linh có khác biệt khi nhìn qua kính, như cây cối chung quanh thấy khác đi. Tuy nhiên có lẽ sự sai lạc về hình dạng là do ảnh hưởng của mắt trần; thêm vào đó, chúng có vẻ không thấy rõ lắm xuyên qua cửa kính, và ta cũng gặp cùng khó khăn như đã nêu trước đây, là có phải nó do ánh sáng bị giảm đối với mắt thường chăng ? Muốn làm thí nghiệm thuộc loại này cần phải có một số đông người thấy được tinh linh, và cần có thời gian lâu dài để khảo cứu mới mang lại kết quả có ích. Tốt nhất là bây giờ ta hãy để qua bên những yếu tố được xem là quan trọng đó, và tiếp tục đi tới một câu hỏi khác là tinh linh giống điều gì, bởi đó là mục đích chính của ta.
Đầu tiên tôi cần phải nói là trong thế giới vô hình đó, ngoài tinh linh còn có rất nhiều sinh vật khác và sinh hoạt khác nhau. Cuốn sách này không nhằm vào những gì khác hơn thế, tuy nhiên vì một số sinh vật có liên quan mật thiết với đời sống và công việc của tinh linh, cho nên tôi sẽ phải nhắc đến chúng vào những chỗ thích hợp.
Vì vậy tôi thấy cần phải giải thích rằng có hai hình thức quan trọng có liên quan đến tinh linh và cũng là một phần tử của vương quốc thiên nhiên này. Thực vậy, tinh linh là một thành phần của dòng tiến hóa vĩ đại song song với con người. Mới đầu, cũng như sự tiến hóa của con người, chúng mang hình dáng rất đỗi sơ khai rồi từ từ tiến lên nấc thang đến mức cao nhất mà thông thường dân chúng gọi là thiên thần. Tinh linh so với thiên thần giống như loài vật so với loài người. Hầu hết tinh linh đều liên quan đến các tiến trình của thiên nhiên như tôi đề cập tới sau này, và các thiên thần cũng vậy.
Quyển sách này không đề cập tới thiên thần ngoại trừ khi các ngài có liên hệ đến tinh linh, nhưng tôi có thể nói tổng quát là những quan niệm hay có về thiên thần thường khác xa thực tế. Có rất nhiều điều lý thú khi nói đến thiên thần, các ngài là những nhân vật đang hiện hữu và sinh sống như ta và tôi cũng sẽ đề cập về sau. Chưa bao giờ tôi thấy thích thú với những ý tưởng dân gian có về thiên thần, bởi nó vẽ các ngài như là nhân vật đầy đức hạnh mà lại có rất ít cá tánh; còn trong thực tế thì mỗi vị đều có bản tính riêng thực rõ rệt và thú vị.
Các ngài là những nhân vật mạnh mẽ, không bao giờ tiêu cực hay mềm yếu cả. Có một điểm đúng trong niềm tin dân gian về thiên thần là các ngài có trí tuệ cao hơn ta. Một số đông thiên thần ở mức tiến hóa rất cao, là những đấng uy nghi rực rỡ. Tương tự vậy, có tinh linh thông minh và phát triển hơn loài vật. Tôi nghĩ nói chung, tinh linh ở mức tiến hóa cao hơn thú vật. Điều này cũng được nhắc đến trong những trường hợp đặc biệt hay trong các thí dụ nêu ra.
Khi thảo luận vấn đề này với nhiều người ở rải rác khắp nơi, tôi ghi nhận một nét lạ lùng. Dù nhiều người tin rằng tinh linh chỉ là chuyện tưởng tượng còn thiên thần là nhân vật có thực, trong thực tế thì gần như không ai tin là có thiên thần mà lại tin có tinh linh. Sự kiện trên có là vì tinh linh gần gũi với con người hơn là thiên thần - điều này không đúng hẳn đâu, và do lỗi của con người. Một nguyên nhân khác nữa là đối với nhiều người, tinh linh luôn đồng nghĩa với sự vui đùa hồn nhiên, trong khi thiên thần liên quan đến việc thờ phượng, làm các ngài xa vời, hoặc có liên quan đến chuyện buồn rầu như chết chóc hay đau khổ.
Tôi gọi những sinh vật thấp hơn của dòng tiến hóa này là tinh linh - elementals, vì sự sống của chúng có ít tổ chức, và giống như các nguyên tố hóa học; hầu như chúng không có cảm giác hay tư tưởng nào. Chúng nhỏ người, nhưng có nhiều loại kích thước thay đổi, còn về tính chất và nhiệm vụ thì chúng khác nhau rất xa. Nhưng ta không cần quan tâm nhiều đến loài này trừ khi việc làm của chúng có liên quan đến tiên nữ - fairies. Đời sống của tinh linh gần gũi với người, giống như tiên nữ. Loài sau khác biệt hẳn so với tinh linh tuy chúng từ tinh linh đi lên theo thang tiến hóa, có nhiều mối tương giao đặc biệt với người. Tiếp xúc với thiên thần không dễ như vậy, vì cơ thể các vị làm bằng chất rất thanh nhẹ, còn tinh tế hơn là chất tạo nên cơ thể của tiên nữ nữa, và do đó ta không sao thấy họ bằng mắt trần được.
Muốn quan sát các thiên thần, ta phải dùng thông nhãn do sự thanh nhẹ của thể chất các ngài. Vì vậy trong khi không thể dùng mắt thường để nhìn thiên thần, thì ta có thể thấy được tinh linh bằng cách ấy, đặc biệt là nhìn từ khóe mắt. Một số người thấy được tinh linh ngoài bìa thị trường, lý do là phần trung tâm võng mạc được dùng nhiều nhất để nhìn khung cảnh quanh ta, khiến nó không đáp ứng với những làn sóng thanh bai của ánh sáng do tinh linh phát ra, trong khi phần còn lại quanh trung tâm thì hãy còn mới và thích hợp cho việc nhìn thấy tinh linh. Vài điều về mối tương quan giữa tinh linh và thiên thần đứng ở mức cao nhất của thang tiến hóa, được ghi trong chương nói về sự tiến hóa.
Tôi xin ghi rõ là trong quyển này, tôi chỉ tả một số ít trong hàng ngàn loại tinh linh đang có. Tôi không muốn bạn nghĩ rằng tôi đã thấy được hết mọi loài tinh linh. Tôi không thể nói rõ là chúng có vô số và khác nhau như côn trùng, chim chóc, thú vật và loài cá chăng, nhưng tinh linh rất đông đảo và thuộc đủ loại. Mai sau tôi nghĩ mỗi loài sẽ có tên riêng và chính xác, mà thực ra chuyện thần thoại đã có tên riêng cho chúng rồi, nhưng tôi sẽ ráng tránh những danh từ cổ lỗ sĩ này. Vì những tên đó liên quan đến niềm tin trong dân gian mà không dựa trên hiểu biết, nên nó không phù hợp với các tinh linh trong thực tế khi ta muốn nói về chúng. Hơn nữa một số định kiến đã nằm sẵn trong trí óc con người khi nói về chú lùn, tiên nữ, thần núi v.v. Những ý tưởng đó có khi đúng có khi sai nên (để an toàn) tôi sẽ tránh hầu hết các tên cổ đó, và sẽ đặt cho tinh linh những tên gợi hình mà đối với tôi có vẻ ích lợi hơn. Cũng vậy, tôi gọi chung thế giới thần tiên là ‘tinh linh - nature spirits’, còn chữ ‘tiên - fairies’ dành cho một loài đặc biệt thuộc về rừng hay vườn nhà. Chính xác thì vậy, còn thì chữ ‘thần tiên’ thường được dùng chung cho cả tinh linh (elementals, nature spirits’) và tiên (fairies).
Trong thế giới thần tiên có sự phân ranh rõ rệt giữa các tinh linh, y như sự phân biệt trong loài vật và cây cỏ. Thế nên tôi xếp đặt sách thành những phần về các loài chính trong thiên nhiên là Nước, Lửa, Không khí và Đất.
Tinh linh nước phân biệt hẳn với các tinh linh khác, trong khi tinh linh không khí cũng riêng rẽ, như chim với cá và côn trùng vậy. Cách phân loại này tự nhiên và không tránh được, và không đi xa lắm với thế giới vật chất ta sống. Các nhóm cũng đan lẫn vào nhau, tựa như thế giới của ta có vài loại cá biết bay một chút, vài loại thú trên đất cũng biết bơi v.v. Dù vậy vẫn có sự phân chia thực sự, rõ ràng.
Tuy nhiên trong bọn chúng, có lẽ có một loại hầu như gồm đủ hết các tính chất của danh từ ‘tiên’. Đó là một loài tiên sống trong rừng hay vườn mà ta sẽ gặp nhiều trong các trang sau. Ta có thể thấy chúng khắp nơi, hình dạng thay đổi từ lục địa này sang lục địa khác, như con người ở các nước riêng biệt vậy. Có lẽ cách tốt nhất để đi sâu vào đề tài chúng ta là tả kỹ về tiên trên đất liền, để nhờ đó ta có thể bước thong dong, vui vẻ vào thế giới có những người bạn rất thực, hết sức thân ái và dễ mến vô cùng.
CHƯƠNG II
Trò Chuyện với Dân Cư Thần Tiên
Thế giới chúng ta đã chạm đến thế giới tinh linh ở vài điểm. Nhiều người đã cảm nhận không ít thì nhiều tính trầm mặc của khu rừng hay cảnh hùng vĩ của một ngọn núi, nhưng thường khi họ nghĩ ấy là bởi thị giác, thính giác và cảm xúc trong lòng, trong khi đúng ra nó là do thế giới tinh linh trong cảnh gợi nên. Các thi sĩ như A.E., James Stevens, Yeast,Tennyson và Shakespeare đã làm phong phú thêm sự hiểu biết và cảm xúc của ta về thế giới thần tiên. Họ biết và biết chuyện đúng đắn. Có đông người hơn ta tưởng có liên lạc mật thiết với tinh linh và thiên thần. Hố ngăn cách giữa loài người và tinh linh không sâu như lòng vô minh của ta nghĩ. Nếu biết rằng ta đang sống trong thế giới có đầy dẫy những tinh linh, thiên thần và vô số các sinh vật khác, thái độ và cách sống của chúng ta sẽ thay đổi hẳn. Chỉ cần biết rằng có một thế giới như vậy đang hiện hữu cũng làm ta hân hoan, rồi sự hiểu biết và niềm tin xác quyết tự nhiên sẽ đến. Con người cũng sẽ linh hoạt hơn, vì không thể nào tiếp xúc được với thế giới tràn ngập sức sống ấy mà không nhiễm tinh thần đó, đánh thức năng lực sáng tạo ngay trong chính ta.
Tôi chỉ là một trong số những đứa trẻ biết về tinh linh từ hồi còn rất nhỏ, nhưng trong trường hợp của tôi - nhờ may mắn và những thuận lợi khác nữa - sự hiểu biết không những kéo dài mà còn được mở mang thêm. Bạn đọc chắc biết vài trường hợp như vậy rồi, tôi cũng đã gặp nhiều em nhỏ thấy được như tôi, và nhiều người lớn vẫn còn nhớ lại thuở xưa họ đã thấy được. Nhưng không mấy người có can đảm nhìn nhận khả năng đặc biệt ấy, vì thường khi họ sợ người chung quanh cho là họ khác người. Thái độ của cha mẹ đối với con bắt em phải chống chế cho mình. Bị đòn vì ‘bịa chuyện’ làm đứa trẻ không muốn đi xa hơn về mặt ấy, nó khiến trẻ mắc cỡ vì kinh nghiệm đáng yêu.
Hơn nữa chúng ta cần nhớ rằng thấy được tinh linh là chuyện rất tế nhị: phải có sự yên lặng, an tĩnh vì tinh linh rất e ngại chúng ta, tựa như thú hoang, chúng cần được dẫn dụ để trở nên quen thuộc và lại gần người. Nói chung, ngay cả trong trường hợp thuận tiện nhất, chuyện không dễ dàng cho người thiếu kinh nghiệm, nhất là ở vùng quanh thành phố. Thêm vào đó thái độ thù nghịch do không hiểu biết của đa số, và niềm tin cứng chắc rằng chỉ những gì sờ chạm được mới là thực, thì ta hiểu phần nào vấn đề mà một đứa trẻ gặp phải khi em thấy được tinh linh. May mắn thay, càng ngày càng có nhiều bậc cha mẹ ý thức hơn về việc nuôi dưỡng khả năng sáng tạo và cảm quan bậc cao nơi trẻ nhỏ.
Những người sống gần thiên nhiên như dân quê hay nhà nông ở khắp nơi đều biết về tinh linh. Khối lượng chứng cớ và nguồn gốc chuyện là điều không cần tranh luận, cũng như bản chất chuyện cho ảnh hưởng quan trọng. Vì vậy điều cần là ghi lại những trường hợp có sự tiếp xúc của hai loài.
Mối liên hệ mà ai trong chúng ta cũng có thể có với tinh linh thấy được qua chuyện sau. Nhiều năm về trước một nhóm bạn mừng sinh nhật thứ mười bốn của tôi, bằng một buổi đi chơi trong Công Viên Quốc Gia ở Úc. Trong nhóm có vài kẻ thấy được tinh linh, khi chúng tôi ngồi bên dòng suối chảy ngang qua công viên, chúng tôi để ý thấy có một số đông tinh linh hiếu kỳ và thân thiện đang nấp sau bụi cây lấp ló nhìn. Đây là lần đầu tiên chúng tôi đến chơi công viên, này và cảnh sống phong phú của tinh linh ở đây khiến chúng tôi tiếp xúc được với thiên thần của vùng.
Ngài tỏ ra là nhân vật đáng chú ý, cao lớn oai nghi, đầy quyền lực và nét cương nghị. Ngài quen việc cai trị và thực hiện kế hoạch của mình, nhưng luôn luôn làm vậy với lòng từ cao độ. Một kẻ trong bọn tôi đeo cây thánh giá nạm ngọc đã hấp dẫn thiên thần; ngài nói thánh giá là biểu tượng mạnh mẽ ở bất cứ đâu, trong trường hợp này ngọc lại phát ra ánh đặc biệt. Ngài thích thú thấy chúng tôi có khả năng nói chuyện được với ngài và thấy được tinh linh. Thiên thần muốn biết thêm về cây thánh giá, ước ao có vật như thể và hỏi chúng tôi có thể tìm cho ngài một cái giống vậy chăng. Dĩ nhiên chúng tôi hiếu kỳ muốn biết ngài cần nó để chi và thiên thần giải thích.
Phần việc của ngài là trông coi thung lũng rộng lớn này và ngài có một kế hoạch cho nó. Thiên thần chia thung lũng làm ba phần, trong mỗi phần ngài muốn có một ảnh hưởng khác nhau. Để làm vậy, ngài đặt một loài tinh linh biển ở vùng hạ lưu con suối chỗ có thủy triều, và dọc theo nó; lại cũng có một loài tinh linh trung gian quen sống vùng nước lợ, nơi đất cao hơn có các gnome đất và tinh linh màu xanh ngọc bích. Ở chỗ cao hơn nữa có đập và nước chảy êm, ngài đặt một loài tinh linh thanh tú hình dạng rất giống người, chuyên sống vùng nước ngọt, màu lam ngọc nhạt; trên vùng đất bao quanh là các tinh linh rừng màu thiên thanh và vô số bướm muôn màu rực rỡ chiếm ngụ. Nơi thượng lưu suối, chỗ khó len vào vì cây mọc um tùm hoang dại, thiên thần tạo khung cảnh khác với loại tinh linh có hơi xa cách người. Ngài muốn đặt cây thánh giá ở khu giữa thung lũng để tạo nên một trung tâm hay điểm ảnh hưởng cho vùng đó. Chúng tôi hết sức thích thú khi nghe vậy, và hứa sẽ ráng tìm một cây thánh giá cho ngài. Thiên thần mừng rỡ và tỏ ra biết ơn lắm.
Bọn tôi ca hát theo tập tục trong những dịp vui chơi như thế, và do vậy thu hút tinh linh từ khắp nơi, còn vị thiên thần đứng ngoài nhìn. Chúng tụ quanh, lạ lùng thấy có người nói chuyện được với chúng và biết rõ cả việc làm của mình nữa. Đến giờ phải chia tay, tinh linh năn nỉ chúng tôi phải nhớ trở lại khi có dịp.
Tới ngày hẹn, tôi và một người bạn trở lại nhưng không có gì mang theo. Ngay khi chúng tôi vừa tới điểm hẹn, đúng ra thì vừa trước đó một chút, vị thiên thần hỏi ngay: ‘Các bạn có mang cây thánh giá đến không ?’ Chúng tôi đáp là không, vì nó chưa làm kịp. Ngài tỏ ra vô cùng thất vọng, nói rằng ta cần phải giữ lời khi đã hứa điều gì, chuyện như vậy không bao giờ xẩy ra trong thế giới thiên thần. Ngài không chấp nhận rằng sự sơ sót như vậy là chuyện thường tình trong thế giới của chúng ta. Tuy nhiên chúng tôi vẫn ở lại và trải qua một buổi thật vui, làm quen với tinh linh dễ thương và chúng vui vẻ trò chuyện với bọn tôi.
Bởi kế hoạch của thiên thần bao gồm cả việc giúp đỡ con người, do có đông người tới chơi công viên vào ngày nghỉ hay dịp hè. Thiên thần muốn mọi người đều có dịp cảm nhận vẻ mỹ lệ của khung cảnh và biết được sự an lạc của tâm hồn, nên tinh linh được dạy tỏ ra thân thiện càng nhiều càng tốt với khách đến chơi vùng này, và phải ráng hiểu con người hơn. Thành ra tinh linh luôn hiếu kỳ về những việc làm của con người, và tỏ ra thích thú lắm khi gặp hai người sẵn sàng nói chuyện với chúng, và có thể giải thích về thái độ kỳ quặc của con người. Vài chuyện đầy bí ẩn với chúng, chẳng hạn như môn túc cầu người ta hay chơi ở đây trong những ngày nghỉ. Tinh linh hiểu được việc con người chạy tới lui, nhưng không sao hiểu là phải đuổi theo trái banh mãnh liệt như vậy. Chúng tôi không thể cắt nghĩa rành rẽ được, chỉ có thể nói đó là trò chơi mà thôi. Bọn tôi lại hứa với thiên thần lần nữa là sẽ trở lại và nhất định mang cây thánh giá cho ngài.
Cuối cùng cây thánh giá làm xong, và bọn tôi mang nó tới công viên. Vị thiên thần giải thích về chỗ ngài muốn đặt nó, nhưng khi đi bộ khoảng 3 - 4 km để tới đó, chúng tôi khám phá nơi ấy ghê sợ quá, tràn ngập không khí kinh hãi do chuyện con người đã gây ra. Chúng tôi xin ngài xét lại thì thiên thần nói rằng chính vì bầu không khi quá xấu nên ngài muốn để thánh giá nơi ấy. Ngài hy vọng bức xạ của ngọc sẽ cải thiện chốn này. Chúng tôi năn nỉ ngài hãy tìm khung cảnh nên thơ hơn, ở chỗ như vậy cây thánh giá sẽ có tác động hữu hiệu nhờ vào sự trợ giúp của cảnh vật xung quanh. Ngài gọi một thiên thần khác tới hội ý, sau rốt quyết định đặt cây thánh giá tại chỗ rất đẹp, cũng là điểm gần trung tâm hơn. Rồi cây thánh giá được đặt nơi ấy và thiên thần lập tức triệu tập tất cả tinh linh trong thung lũng đến. Hàng ngàn tinh linh kéo tới nhập bọn chung với cả trăm sinh vật đã có sẵn ở đó từ đầu chăm chú theo dõi việc. Thiên thần giải thích về mục đích của cây thánh giá và ngay sau đó, hành lễ mừng có vật. Các tinh linh lướt quanh thành vòng tròn với điệu nhày chậm, sung sướng có thêm vật làm tăng vẻ mỹ lệ của công viên. Thiên thần bảo chúng hãy tới nơi này thường xuyên để tắm mình trong bức xạ của ngọc, hầu mang ảnh hưởng mới đi khắp vùng.
Chuyện vừa kể đương nhiên hiếm có, tuy vậy tinh linh trong vườn tiếp xúc hằng ngày với con người. Thường thường khi bước chân ra vườn ta không biết gì về tinh linh nơi đó. Nhưng sinh vật lại biết chúng ta mà vì không nhận được đáp ứng nào từ con người, nên chúng chăm chú lo làm công việc của mình mà thôi.
Tinh linh luôn để ý tới trẻ con, đặc biệt là các em rất nhỏ, vì chúng rất yêu trẻ và vì trong loài người, trẻ là người thân cận với chúng nhất. Khi bước vào một khu vườn, dù là không thấy được tinh linh mà cứ tưởng tượng có sự hiện diện của chúng đâu đây, chắc chắn ta liên lạc được với chúng, nhất là khi ta ngừng lại để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của hoa. Vì việc ngắm hoa và cây cỏ của ta làm tinh linh mãn nguyện vô cùng. Nếu chúng thấy ai thực lòng yêu một loại hoa hay cây cỏ nào, chúng sẽ để ý tới họ hơn do lòng tự phụ được vuốt ve. Tinh linh nghĩ ngay là người đó hẳn phải dễ thương lắm, và bằng cách này hai bên có sự tiếp xúc, vì hai bên có điểm tương đồng là vun trồng nuôi dưỡng cây. Lòng yêu thích hoa và chủ ý mời gọi các tinh linh tới giúp là cách để biết chúng nhiều hơn, và không chừng thấy được chúng. Tình thương yêu sinh vật là cây cầu lớn nối hai loài.
Cách tiếp xúc với những bé nước - water babies, chữ do tôi đặt, thì khác một chút. Sinh vật hoàn toàn không nhút nhát hay ngại ngùng đối với người, chúng sẵn sàng đến gần để làm quen. Tinh linh có thể giúp ta rất nhiều vì người chúng dư tràn sinh lực như sẽ nói về sau. Hồi sống gần biển, tôi có cách thú vị để tiếp xúc với các tinh linh nước. Mỗi lần dùng phà qua vịnh, tôi đều nghĩ đến chúng và mời chúng đến gần, sinh vật sẵn lòng làm theo lời vì chúng coi đó là trò chơi. Tôi hay bày chuyện giải trí bằng cách nhìn trong phà xem ai có vẻ mặt rầu rĩ, xong hỏi một bé nước trong đám tinh linh biển rằng có muốn làm cho họ vui lên chút không.
Tinh linh thích làm vậy lắm và chạy thẳng tới họ, gắng tuôn sinh lực vui vẻ vào người đang rầu rĩ kia, thường thường chẳng mấy chốc gương mặt họ thay đổi và đôi khi kèm một nụ cười. Sinh vật có lúc ở lại với họ chừng tiếng đồng hồ để làm người đó thấy vui hơn. (Tinh linh biển có thể theo người lên đất liền, và ở đó khoảng vài ba tiếng nhưng không lâu hơn.) Đây là việc mà bất cứ ai cũng thử được. Các bé nước rất thích giúp đỡ vì đối với chúng đó là chuyện hào hứng. Nhiều người cảm thấy như được ăn một bữa khỏe người sau khi được chăm sóc cách ấy, cho thấy việc có ảnh hưởng lớn lao đối với ai nhậy cảm.
Sự giúp đỡ không hẳn luôn luôn đến từ tinh linh cho con người, và cũng không phải là sự tiếp xúc giữa hai loài thường dễ chịu như vậy. Chuyện sau đây đã xảy ra cho tôi. Một buổi tối ở Úc, vài người bọn tôi đi chơi ở doi đất tại cảng Sydney, gần đến một chỗ cảm giác đầu tiên có về chuyện lạ là bọn tôi cảm thấy sức nóng ở một điểm trên đường, tuy đó là buổi tối mát trời và ngày hôm ấy cũng không nóng. Cùng lúc, tôi thấy một cảm giác ớn lạnh rất khó chịu chạy khắp người. Lúc đó chúng tôi không nghĩ gì đến chú bạn tinh linh nhỏ, nhưng vào phút ấy chúng tôi thấy tinh linh đang chạy hết sức để thoát khỏi chỗ khó chịu kia. Cùng lúc đó tinh linh cũng thấy chúng tôi nên quay đầu vội chạy lại, mừng rỡ và nhẹ hẳn người đi. Chú nhỏ kể mình bị kinh hãi vì một số sinh vật ghê gớm chiếm chỗ của chú, làm chú sợ khủng khiếp.
Quả thực có bốn hay năm sinh vật như ông chằng to lớn, có màu sắc và cảm giác rợn người. Chúng đang chơi với nhau, uốn éo quanh điểm đó, thân màu đỏ xấu xí, đầu giống như đầu trâu rừng vẽ trong tranh hí họa, cơ thể không có hình dạng rõ rệt. Sinh vật là hiện thân cho những cảm xúc thật tệ hại, phát ra từ chuyện con người đã làm ở chỗ này. Cảm xúc tích tụ nơi đây và vào tối nay nó biểu lộ thành hình tinh linh dị dạng. Chú nhỏ nài xin bọn tôi giúp. Chúng tôi tìm cách đuổi quái vật vì chúng quá thấp kém và không có ích gì. Nhưng chúng rất bướng bỉnh nên năng lực ý chí không cho kết quả trực tiếp lên sinh vật. Tình cờ chúng tôi khám phá rằng sinh vật sợ biến chết đi được, mà biền ngay đó, nên chúng tôi nỗ lực hơn nữa cộng thêm với quyết tâm, cuối cùng đẩy chúng ra khỏi đất liền té ùm xuống nước, và lập tức sinh vật mất tăm.
Chú nhỏ không bao giờ quên sự giúp đỡ này, và đã giữ tình bạn mật thiết trọn cả thời gian chúng tôi ở đó. Đúng ra, tinh linh thường giúp đỡ con người hơn là ngược lại, vì dù sao chúng cũng biết về chúng ta, và hầu như tinh linh nào cũng tốt bụng, còn loài người ít biết về chúng và thêm vào đó ta sống tùy hứng, dù rằng hứng này chẳng giữ được lâu khi có mặt tinh linh ! Trong thực tế có sự sắp đặt đáng nói để nhờ đó tinh linh giúp đỡ con người.
Có nguyên cả một phân bộ gồm các thiên tiên - sylph đã tiến xa, và đôi khi có cả thiên thần, dự vào việc. Dân gian có niềm tin là ta có thiên thần hộ mạng, đây là thiên tiên có liên hệ chặt chẽ với người từ lúc chào đời. Tinh linh có nhiệm vụ giúp đỡ người bạn, nhất là vào phút nguy cấp. Thiên tiên đặc biệt chăm chút vào thuở nhỏ rồi sau đó mối liên hệ phai nhạt đi. Khi ý thức điều ấy, ta có thể gặt hái nhiều điều hay, vì sinh vật rất hân hoan góp phần trong cuộc sống của người, nếu con người chịu đáp ứng lại những gì thiên tiên ưa thích. Nếu con người tỏ ra vị kỷ, nghiêng về mặt vật chất ở đời, chẳng bao lâu thiên tiên lơi sự chú ý về kẻ ấy đi, dù vẫn thỉnh thoảng giúp trong những lúc cần.
Nhưng nếu đứa trẻ càng ngày càng tỏ ra muốn biết thêm về những gì có giá trị, tỏ ra lưu tâm đến người khác và biết nghĩ đến người chung quanh, thì khi đó thiên tiên ở cạnh lâu hơn và tích cực trợ giúp nhiều năm. Lắm khi mối liên hệ rất tốt đẹp. Theo lệ, thiên tiên hay thiên thần thường là linh hồn tiến hóa hơn người mà các vị chăm sóc, và bởi thuộc hàng ngũ tinh linh, các vị có lợi thế đáng kể là di chuyển lẹ làng, đầy tinh thần hợp tác và cái nhìn thân ái. Tỉ dụ thiên tiên có thể thấy đứa trẻ sắp gặp chuyện nguy, tức thì họ làm người mẹ cảm thấy có chuyện chẳng lành đang xẩy tới cho con mình, và làm bà chạy đi tìm con ngay đúng lúc. Có vô số chuyện nhỏ nhặt như vậy, và lại cũng có chuyện quan trọng hơn xảy đến trong những năm đầu đời, làm cho mối liên hệ sống động.
Tuổi thơ là lúc mà dây liên hệ giữa hai loài được mật thiết hơn hết. Vì do bản chất trẻ gần gũi với tinh linh hơn người lớn. Chúng hồn nhiên vui vẻ, ngây thơ, hòa mình với thiên nhiên dễ dàng, tương đối không có trách nhiệm và chẳng phải lo lắng về thức ăn, quần áo, lại tỏ ra sung sướng, hứng thú, đầy óc sáng tạo vui vẻ với những vật nhỏ bé như hòn cuội, vỏ sò, hay hộp rỗng. Trẻ cũng rất để ý tới các vật còn non và đang tăng trưởng, có óc tò mò vô giới hạn về đủ mọi chuyện chung quanh, không có ý niệm về đạo đức, lề thói cư xử, ưa thám hiểm, giả bộ và thích nghe chuyện tưởng tượng bí ẩn. Do những điều ấy, trẻ rất gần với tinh linh. Ấy là tại sao ở tuổi thơ, cánh cửa giữa loài người và tinh linh đã mở rộng hoàn toàn.
Với người trưởng thành, có một số đông ý thức đôi chút về loài tinh linh, nhưng nhóm người duy nhất có kinh nghiệm về mối tương giao là thủy thủ. Lối sống của họ cho phép có việc ấy, giờ làm việc, gác đêm, ở riêng với một nhóm nhỏ trong thời gian dài, lênh đênh trên mặt biển, tách biệt với những lo nghĩ thường tình, tất cả những điểm trên đã cho ra tình trạng đặc biệt. Trong hoàn cảnh đó tinh linh cũng góp phần vào. Thủy thủ là nhóm người duy nhất tiếp xúc trong thời gian dài với cả hai nhóm tinh linh đặc biệt: tinh linh biển và tinh linh không khí. Hai nhóm này khác hẳn tinh linh trên đất liền. Có phải tính khí chung của thủy thủ, lòng tin vào quyền lực siêu nhiên và thần thánh là do kinh nghiệm đặc biệt ấy ? Cũng đúng là thợ mỏ cũng tiếp xúc với tinh linh, đó là tinh linh dưới đất, nhưng thợ mỏ sau những giờ làm việc lại trở lên mặt đất, nhận lại ảnh hưởng quen thuộc, còn thủy thủ thực sự nhiễm lực vui sống hân hoan của sinh vật ở sâu trong lòng biển, và trong không gian lồng lộng chung quanh.
Tôi hay nói chuyện với người thấy được tinh linh, nhưng người như vậy thường không nhiều. Cá nhân tôi biết chừng mười hay hai mươi người, và đã cùng nhau học hỏi về tinh linh trong nhiều dịp. Ở đây tôi muốn nói đến người có khả năng thấy được tinh linh bất cứ lúc nào họ muốn. Thỉnh thoảng tôi cũng có dịp gặp người mới thấy tinh linh lần đầu. Có lúc tôi cũng đi chung với một số người để quan sát và tả tinh linh theo lời yêu cầu của họ, khi làm vậy thật có ích. Chẳng hạn như có lần tôi đi kiếm tinh linh trong Central Park ở New York, chỉ để thỏa mãn yêu cầu của tờ báo thành phố. Tôi đến đó tuy nghĩ mình sẽ không tìm được chú nào, nhưng tôi lại thấy một số, ít thôi, dù lúc ấy mới đầu xuân. Tinh linh đáng để ý, có vẻ như chúng không sợ người chút nào, chắc vì thấy người qua lại thường xuyên. Nếu ta đến gần tinh linh thì chú lùi lại một chút mà không thấy như bị đe dọa.
Thấy có hai loại tinh linh rõ ràng. Một loại nhỏ, cao chừng 30 cm, mầu xanh ngọc bích đậm. Chúng đang chơi giỡn leo trèo quanh thân cây hồ đào, sung sướng lắm, nhảy từ cành này sang cành kia một cách hớn hở, bởi hôm đó là ngày nắng đẹp, và không để ý gì đến tôi cả. Tôi cũng thấy một tinh linh khác có hai mầu, nâu và vàng óng, hình dạng giống như con gấu bông với khuôn mặt phị xuống, đang bận rộn trong bụi cây. Tôi tìm cách bắt chuyện với chú nhỏ, giải thích là sẽ kể về chú lên báo, vì vậy tinh linh có gì đặc biệt muốn nói chăng ?
Sinh vật tỏ vẻ thích chí với ý là nhiều người sẽ chú ý tới mình, nhưng hoàn toàn không biết ý của chuyện. Với tinh linh, tờ báo là vật người ta lấy để trước mặt rồi sau đó vứt đi cùng khắp công viên ! Tại sao người ta lại làm điều như vậy, rồi bây giờ chính chú sẽ được đặt vào một trong các vật ấy để rồi sẽ bị quăng xuống đất, chuyện đó chú không sao hiểu được. Còn buổi phỏng vấn đặc biệt này, có gì là đặc biệt đâu, vì chú nhỏ luôn luôn có mặt nơi này, con người cũng luôn luôn có mặt nơi đây, chú thích họ, mà đặc biệt là thích trẻ con, như vậy thì có gì là đặc biệt kìa ? Tinh linh rất thực tế, thẳng thừng.
Cho dù cảnh sống trong công viên không cung cấp điều gì đáng kể, chuyện công viên thành phố có tinh linh cũng làm người ta chú ý lúc bấy giờ. Bởi con người luôn luôn thích thú muốn biết về thế giới thần tiên, ngay cả trong thời vật chất, đầy óc khoa học hiện giờ. Ngay cả khi tinh linh bị hình ảnh mới lạ trong trí trẻ con thế chỗ như sinh vật ngoài không gian, chúng vẫn là nhu cầu bẩm sinh sâu xa của người. Lòng ước ao kết bạn, hoặc chỉ cần biết rằng có tinh linh, bắt nguồn từ ý tưởng là chúng luôn luôn có đó, lặng lẽ, đa số không thấy được nhưng gần trong gang tấc, như là có bàn tay tinh nghịch gõ lên tấm vách ngăn mỏng manh giữa hai thế giới. Ta như gần nghe được tiếng chuông trong vắt của chúng. Nét hớn hở và mỹ lệ mà chúng là hiện thân ảnh hưởng con người từ mảnh đất trong công viên, khu rừng và vườn tược. Bầu trời mang mang và biển mênh mông là cửa ngõ hoan hỉ đưa vào thế giới của chúng. Khắp chỗ đều có tinh linh, nên mọi nơi đều có vẻ diễm lệ và hạnh phúc. Nếu người lớn như chúng ta lấy lại được phần nào tính đơn sơ và thẳng thắn của trẻ nhỏ, thì ta có thể tìm lại được vùng đất sung sướng đã mất là thế giới của các tinh linh đất, vì tinh linh rất hoan hỉ làm bạn đơn thuần, luôn tin cậy được, và luôn luôn tốt bụng, dễ thương.
CHƯƠNG III
Một Tinh Linh Mẫu
Tả chi tiết về hình hài dáng dấp của tinh linh là chuyện không dễ, nhất là về chất tạo nên cơ thể chúng. Trước tiên là tinh linh có nhiều loại khác nhau, việc này có thể giải quyết bằng cách tả một tinh linh điển hình, vạch ra những điểm các tinh linh khác cũng có. Trở ngại thứ hai nằm ở điểm đa số người thấy khó mà tưởng tượng rằng có cơ thể không làm bằng chất liệu cõi trần. Nhưng khoa học đã chỉ cho ta biết vật chất cõi trần không là gì khác hơn năng lực và sóng, vì vậy nghĩ về thân hình tinh linh làm bằng chất thanh nhẹ, thanh bai hơn cả loại khí hiếm nhất thì cũng không khó lắm đâu. Trong thế giới của chúng ta, ta cần có một cơ thể cứng cáp để chống chọi với sự căng thẳng, tai nạn và áp lực, kết quả là con người có cấu tạo đặc biệt như bộ xương, bắp thịt, hệ thần kinh. Còn thế giới mà tinh linh sống không cần đến sự rắn chắc đó. Trọng lực, mức đậm đặc và áp suất hoàn toàn khác hẳn nên tinh linh không bị đòi hỏi phải có cơ thể phức tạp với sức đề kháng cao. Vì đây là tính chất chung nên những gì tôi sắp viết về tinh linh sẽ chọn cũng có thể được tổng quát hóa.
Để mô tả, tôi sẽ chọn một tinh linh thông thường, sống trên đất, hay gặp trong rừng hoặc trong vườn, điển hình cho loài. Sinh vật như thế có thể nói là đang ở nấc thang giữa dòng tiến hóa; chúng thường xuyên tiếp xúc với loài người, có đủ màu sắc, lớn nhỏ nhiều cỡ ở khắp nơi trên trái đất và nhiều người đã thấy tinh linh. Chúng thông thường quá nên lấy ra một cá nhân để phân tích là chuyện khá dễ dàng. Sinh vật được chọn dưới đây có màu lục, sống trong rừng ở New England.
Anh cao chừng 75 cm, thân hình mảnh dẻ, đầu lớn không cân đối với thân nếu so theo tiêu chuẩn người. Cơ thể của tinh linh làm bằng chất như hơi nhưng đường nét thân hình rất rõ nét và liền lạc. Chất liệu giống như hơi thoát ra từ vòi ấm nước đang sôi, có mầu như khí mầu, chỉ có điều thanh nhẹ hơn chất khí nhẹ nhất mà ta biết, và khó dò ra hơn hydrogen và helium. Nhưng chuyện ấy không cản trở chút nào việc tụ lại thành hình, vì đó là chất sống động mà không phải là hóa chất, có sức sống hòa vào giữ chất liệu lại với nhau. Tinh linh biểu lộ năng lực của mình như là sinh vật sống động, qua việc cơ thể của anh được tạo bằng hai chất liệu đậm đặc khác nhau. Thân hình nói riêng màu xanh ngọc bích hơi đặc, chung quanh thân khắp bề có một làn sương cùng chất liệu nhưng loãng hơn và không sống động bằng, và có màu lục nhạt hơn.
Tất cả là chất sống và là chất tình cảm. Sự di chuyển của tinh linh là do ý anh muốn đi chỗ này chỗ kia, hay làm việc này việc nọ. Vì đây là chất tình cảm nên thay vì có cơ cấu phức tạp của tim mạch, bắp thịt, hệ thần kinh, mỗi khi có cảm xúc cơ thể của tinh linh sẽ đáp ứng tức thì và trực tiếp.
Tôi cần phải giải thích rằng dù tôi nhìn xuyên qua được phần ngoài mỏng của tinh linh, và dù phần trong rất thanh nhẹ, bên trong cơ thể tinh linh cũng có bộ phận tuy rất đơn giản nếu so với người. Cơ quan chính có thể gọi là quả tim, là một tâm sáng rực, phập phồng, nằm ở vị trí quả tim của người. Nó phát ra ánh sáng vàng óng ánh, đập giống như tim người nhưng chỉ có bóp vào rồi dãn ra. Khi tinh linh hoạt động thì nó đập mau, khi anh yên tĩnh thì nó đập chậm. Nó là trung tâm sinh lực của tinh linh, vì thấy như nó luân chuyển lực sống đi khắp người, tức sinh vật cũng có hệ tuần hoàn thô sơ, kết hợp cả thần kinh và mạch máu. Đầu tinh linh có cấu tạo đặc biệt, nhưng anh không tụ trên đầu vì kinh nghiệm chính của tinh linh là cảm giác và sức sống. Trong vài trường hợp hiếm có, khi sinh vật thắc mắc hay ráng suy nghĩ, thì khi ấy đầu anh lóe sáng một chút từ bên trong, và cũng có ánh vàng chói.
Vì tinh linh không hề ăn, anh không có bộ tiêu hóa nhưng vẫn có miệng và các phần khác trên mặt. Trước khi nói thêm, tôi cần ghi là quả tim anh có điểm đặc biệt. Sinh vật làm chủ được nó, và chính nhờ sự làm chủ ấy mà anh tiếp xúc được với vật chung quanh, nhất là các vật sống. Khi muốn đáp ứng với cây cỏ, tinh linh sẽ làm quả tim đập cùng một nhịp với nhịp của cây ấy. Tính đồng điệu khiến cả hai hợp nhất, và như thường nói, nhịp điệu là bí mật của đời sống tinh linh. Mỗi loại tinh linh (nước, đất, không khí hay lửa) sinh ra với một khoảng tần số rõ rệt về khả năng hòa nhịp, tùy theo loại của chúng và bản tính riêng. Trong giới hạn đó tinh linh làm chủ nhịp của sức sống theo ước muốn và cảm xúc của mình.
Nhịp đập quả tim là yếu tố chính cho việc liên lạc giữa tinh linh với mọi vật chung quanh, nhưng anh vẫn có cảm xúc và đáp ứng với kích thích từ môi trường bên ngoài, dù có đồng nhịp hay không với người và vật. Có nghĩa là tinh linh có cái tương ứng với bộ máy cảm giác của ta. Con người tinh linh chỉ toàn là cảm xúc, và do đó sinh vật không tiếp nhận cảm giác chỉ thuần qua bộ phận đặc biệt như mắt và tai, mà đúng hơn nhận một cách tổng quát mà rất sống động qua khắp con người. Anh đắm mình trong vật mang lại cho anh cảm xúc. Đồng thời cũng có những cảm giác bén nhậy và chuyên biệt hơn ở vài bộ phận trong người anh.Thí dụ tinh linh có mắt và anh quay đầu để nhìn vật rõ hơn, nhưng anh vẫn có thể nhận thức rất rõ vật sau lưng, bởi nguyên cả thân hình tinh linh cảm được bức xạ do vật tỏa ra.
Tinh linh cũng có khứu giác khắp người, vì sinh vật luôn đắm mình trong hương của những hoa mà ta biết là rất ngọt ngào, đồng thời sinh vật cũng làm vậy với các loại hoa mà tôi thấy không có mùi gì cả. Như thế tinh linh nhậy cảm về phần này hơn con người mà không phải kém hơn; anh không có vị giác vì không hề ăn, nhưng chắc chắn tinh linh biết tiếng động và đáp ứng lại với nhạc, và như đã nói, phản ứng với trọn cơ thể. Tinh linh có cái giống như lỗ tai và vành tai nhọn, nhưng tôi nghĩ sinh vật cảm nhận âm thanh ở khắp cả người, đôi tai có thể mang ý nghĩa khác.
Nơi tinh linh trung bình, gương mặt có đường nét thô sơ. Thị giác xem ra là giác quan trụ ở bộ phận rõ ràng, nhưng tinh linh không đến gần để nhìn ta chăm chú, và trong đa số trường hợp không có mí mắt, lông mày hay lông mi vì sinh vật không cần. Thường khi mặt có cái nhô ra như mũi và nói chung thì có tai. Miệng là một gạch ngắn, chung quanh có nếp nhăn, hơi cong lên một chút lộ nét hân hoan hay tinh nghịch (những cảm xúc này biểu lộ qua khắp người anh sống động hơn nhiều), rất ít khi tinh linh há miệng và xem ra chú chàng không có răng. Khi sinh vật nhoẻn cười, miệng kéo ra sau hóa dài ngoằng ngộ nghĩnh, nhưng không có nếp nhăn nào quanh khóe môi hay mắt. Mặt tinh linh mầu nâu nhạt, có lông như rêu xanh viền quanh.
Một điểm đặc biệt là khi nhìn ngang, bề dầy của đầu từ trước ra sau cũng bằng bề dầy của thân hình, cổ không rõ mấy. Chuyện khác về các tinh linh rừng này là hoặc chúng có chân dài và thân ngắn, hay chân ngắn đi với thân dài, ít khi có cơ thể cân đối theo tiêu chuẩn ta quen.
Khi đi, anh không bước từ nơi này sang nơi kia mà lướt trôi. Ý muốn của tinh linh hay nhu cầu lôi cuốn anh tới nơi nào đó. Tự nhiên là khi cần anh có thể nhẩy nhót tung tăng và nhẩy cà tưng lên xuống. Tinh linh có tay chân mà không có ngón tay, ngón chân rõ rệt, và bàn tay đôi khi giống như bàn chân. Chúng không có bắp thịt cuồn cuộn, gân cốt chằng chịt như ta, mà là sinh vật mảnh dẻ, thanh bai và nhanh nhẹn khéo léo lạ lùng.
Tả sơ là vậy, ngoài ra còn những chi tiết khác biệt tùy theo loài, vì có rất nhiều loại, từ sinh vật bé nhỏ khoảng 3 - 5 cm cho tới một cỡ lớn cổ quái khủng khiếp. Tinh linh trung bình và ngay cả tinh linh vừa tả có khả năng thay đổi hình dáng và kích thước của mình rất đáng nói. Thân thể tinh linh là cảm xúc và sức sống, thế nên khi anh sống và cảm xúc, hình dạng và cỡ thay đổi. Anh có thể làm cho mình hóa nhỏ tí, cỡ 12 cm, hay phình lớn ra cho tới cỡ 1,50 - 1,80 m. Nhưng muốn vậy tinh linh phải có ước muốn mãnh liệt, và không thể giữ mãi hình dạng to lớn. Cũng y thế, tinh linh không cần giữ hoài màu xanh lá cây. Sinh vật có thể thay đổi màu sắc như thay đổi thân hình. Thực vậy, một trong những trò chơi ngộ nghĩnh của tinh linh mà tôi gọi là ‘diện áo’ là chúng thay đổi màu sắc và y phục theo óc tưởng tượng của mình.
Ngay cả trong thiên nhiên, màu của tinh linh ở rừng và vườn cũng thay đổi đáng kể tùy nơi chốn. Ngoài thân màu xanh lá cây với mặt màu da người thấy nhiều ở New England, tôi còn thấy tinh linh tía với sọc ngang màu tím ở Florida, California có loài vàng trơn óng ánh, hay đôi khi có sọc nhạt hơn; tiểu bang vùng tây bắc có màu xanh và màu tím nhạt, còn miền bắc California có màu đồng đen như do đúc khuôn, và đôi khi có hình lạ lùng như xoáy ốc khắp người. Ở vùng Riviera của Pháp chúng màu vàng chanh và xanh lá cây cũng có sọc, hay có loại màu xanh xinh đẹp và mầu hồng. Tại Ấn Độ tôi đặc biệt nhớ trong các loài ở đó có sinh vật màu cam đậm, hay màu tía. có loài xinh đẹp và thường thấy nhất là màu xanh đậm với sọc vàng óng. Ở Úc đa số là mầu thiên thanh, nhưng tôi cũng thấy vài tinh linh có màu đen lạ kỳ và màu đỏ trong núi. Lại còn màu cam và vàng, hay cam và sọc trắng thấy ở đảo vùng nam Thái bình dương. Bản liệt kê cho thấy chỉ riêng loài tinh linh đất đã có vô số hình dạng khác biệt. Màu sắc hình như tương ứng với cỏ cây trong vùng, nói chung thì màu rực rỡ hơn ở vùng nhiệt đới.
Ta cũng sẽ dùng tinh linh này để tả về vai trò của sinh vật trong sinh hoạt của thiên nhiên, nhưng cần nhắc lại là tôi chỉ nói về một trong hàng trăm loài khác nhau.
Nét chung của mọi sinh hoạt trong thế giới tinh linh là hoạt động không ngừng nghỉ của chúng trong cây cối, bụi cỏ và những vật đang tăng trưởng khác. Trong mỗi khu vườn, từng rẻo đất có cây mọc, ta thấy chúng tất bật lo lắng, chăm sóc cho cây. Nói chính xác thì chúng làm gì, và hoạt động của tinh linh ảnh hưởng tới cây cỏ ra sao ? Câu trả lời không đơn giản, nhưng tôi sẽ tả lại đúng đắn cái thấy được.
Đầu tiên phải nói rằng tinh linh không nhìn sự vật theo cách của chúng ta. Khi ta nhìn vào bụi hồng ta chỉ thấy cành, lá, và hoa mà thôi. Nhưng tinh linh thấy khác. Đứng cách xa chừng 5 m, sinh vật thấy nụ hồng như là một vật sáng rỡ, lớn hơn nụ hồng vật chất ta biết. Vật không phản chiếu ánh sáng, mà thực ra là một nguồn sáng tự mình phát ra như lân tinh. Lại gần hơn tinh linh thấy thêm nhiều chi tiết. Ngay giữa tâm hoa hồng anh thấy một điểm sáng rõ rệt, từ đó tỏa ra những làn ánh sáng màu thanh bai, tương ứng sát với cấu tạo vật chất của cánh hoa.
Lực chảy liên tục từ tâm hoa dọc ra những đường của cánh hoa. Có hai đường lực chính ở đây. Tự cái cây thì nó hút thức ăn, hơi ẩm và năng lực từ đất, tất cả những chất đó đi ngược lên rồi cây tiêu hóa và đối với tinh linh, nó như những dòng ánh sáng. Cùng lúc đó lá và hoa thu năng lượng mặt trời, thán khi, và năng lượng ấy là dòng thứ hai. Hai dòng chảy lên xuống trong thân cây và cành theo đường xoắn ốc, nên với tinh linh bụi hồng giống như một cấu trúc ánh sáng màu rực rỡ, gồm những đường mỏng mảnh sáng hơn màu nâu, xanh lục và màu trắng thông thường của bụi cây. Tâm của nụ hồng là trung tâm phân phối những năng lực ấy cho nụ hay hoa.
Trong sự trao đổi các lực từ đất và mặt trời, tinh linh có vai trò rõ rệt. Anh có quyền đối với cả hai dòng lực, nhất là sinh lực từ mặt trời. Sinh vật có thể làm cho nó chậm lại chỗ này, hay mau hơn chỗ kia, có thể cho thêm sinh lực của chính anh vào chỗ nào thấy cần. Trước tiên tinh linh làm cho mình đồng nhịp với cây, bằng cách khiến tim anh hòa theo nhịp của cây. Anh đứng ngoài lượng xem phải làm gì, rồi bắt tay vào việc. Tinh linh bay nhẩy khắp cây, vỗ chúng và ánh sáng phát ra chảy từ bàn tay anh sang dòng lực của cây. Bằng cách ấy anh biến đổi và điều chỉnh sức sống trong cây. Tinh linh thích cây trổ hoa xinh tươi và luôn để ý về khía cạnh này, nhưng công việc chính của anh là giúp cây tăng trưởng tốt đẹp với những điều kiện chung quanh. Anh làm việc nói trên chừng mười, hai mươi phút.
Khi cho là đã xong việc khó nhọc ấy, tinh linh thường rời khỏi cây, nhào lộn trên không vài vòng rồi tung tăng phóng đi chơi hết sức yêu đời. Sau đó lại tiếp tục công việc.
Ta có thể hỏi ‘Cây cỏ tăng trưởng mà không cần tinh linh được không ?’ Được lắm chứ, nhưng sự trợ giúp của tinh linh (và cả sự chăm sóc của người) cho ra khác biệt lớn lao giữa việc cây èo uột lớn, hay tăng trưởng sum suê. Hẳn nhiên cây cỏ lớn vì cái thúc giục bên trong, để sống và để sinh sôi nẩy nở như mọi vật trong thiên nhiên vẫn làm vậy. Nhưng sự giúp đỡ của tinh linh cho đời sống cây cũng quan trọng như việc xới đất trồng bắp. Ta hãy thử nghe lời trần tình của tinh linh. Tự mình sinh vật nghĩ rằng công việc của anh là chuyện nghiêm chỉnh, và theo cách của anh, anh thấy nó quan trọng. Anh thấy có trách nhiệm với mọi chuyện của cây, và lấy làm hãnh diện khi cây lớn mạnh, như người mẹ hãnh diện với đứa bé. Ngoài ra, tinh linh còn phải tường trình công việc cho tinh linh thượng cấp, thỉnh thoảng đến xem sự tiến triển của công việc. Tầm mức của hoạt động tinh linh làm ta ngạc nhiên, chẳng hạn tôi thấy có tinh linh làm việc ngay cả trong nhà kiếng với những cây bé tí. Đây là loại tinh linh nhỏ hơn, nhưng cũng làm cùng một việc đã nói.
Tinh linh dành phần lớn thì giờ trong đời để vui chơi, tuy khó có thể nói cái nào là chơi cái nào là công việc, vì chăm sóc cái cây mà nó thương yêu là chuyện vui thú đối với tinh linh. Anh coi đó là niềm vui thích hơn là nhiệm vụ phải theo sát. Nói cho đúng thì mọi việc trong đời tinh linh chỉ là sự chơi đùa, khác nhau là ở mức độ mà thôi. Như vậy ngay cả lúc anh vui chơi tinh linh cũng tỏ ra hữu dụng, bởi anh tỏa ra sự vui vẻ, làm con người và những sinh vật khác bỗng dưng sung sướng khi bước vào vòng ảnh hưởng, cho dù họ không hay biết gì về tinh linh.
Tinh linh chơi đùa bằng cách nhào lộn, nhảy nhót, tò mò lén nhìn vào tổ chim, hiếu kỳ muốn biết mọi chuyện xày ra trong đời sống quanh mình. Chúng biết rành rẽ tất cả chim chóc trong vùng, cá tính từng con vật, và rất quan tâm đến công việc của các thú vật ấy. Chúng cũng ưa nghịch ngợm, và tìm cách chọc phá nhau luôn. Một chú lẻn vào khu vực của bạn, làm công việc của họ và khi bị bắt gặp quả tang, anh bị tống cổ một cách vui vẻ. Tinh linh có thể thôi miên thú vật, và đùa bằng cách làm cho sóc hay thỏ bị hụt mất miếng mồi lúc chúng vừa thò đầu ra kiếm ăn. Những trò như thế chỉ để vui nên thú vật không tỏ vẻ phiền hà hay khó chịu gì cả. Một đám tinh linh trong rừng có thể bày chuyện nghịch ngợm như vậy với người, nhưng thường thì chúng để yên và không đụng chạm gì đến người cả.
Thỉnh thoảng chúng quây quần lại rồi kể chuyện cho nhau nghe, và sinh hoạt ấy cho ra cảnh thật kỳ lạ. Tinh linh có khả năng bắt chước rất nhạy, và có óc rất kịch. Chúng là những diễn viên đầy cảm xúc hiếm có và một nhóm sẽ dựng nên màn trình diễn. Tôi cần nhắc lại là không những tinh linh có thể thay đổi hình dạng, mà còn tự tạo được cho mình những y phục tuyệt vời, bằng cách dùng ý chí tụ phần chất liệu đậm đặc quanh mình thành y phục tư tưởng. Làm vậy phải nỗ lực tập trung tư tưởng và cần vài phút để có kết quả, nhất là khi tinh linh muốn thay hình đổi dạng. Bộ y phục bằng tư tưởng kia sẽ kéo dài bao lâu tùy theo khả năng giữ được tư tưởng của tinh linh. Đa số không tập trung tư tưởng được lâu nên chúng không kéo dài màn trình diễn. Bới sức chú tâm yếu, và không nghĩ thấu đáo vai trò muốn có, trọn phần quần áo tưởng tượng có thể bị mất, mất chân, tay hay phần quan trọng khác. Điều này thường làm chúng có hình dạng kỳ quặc.
Khi hình dạng tưởng tượng bị mất quá nhiều, ngay chính tinh linh cũng cười bò huyên náo và kẻ làm hư nhảy tưng tưng thích chí, vì cái gì làm vui cười cũng tốt cả. Nếu bất chợi do thiếu chú tâm mà một kẻ làm mất vai trò của mình, hoàn nguyên dạng bình thường thì cũng đủ làm ngừng cuộc chơi. Nhưng khi mọi việc xuôi chèo mát mái, tinh linh hòa mình vào vai trò của mình thì việc diễn ra thật sôi nổi hào hứng. Chuyện giống như màn trình diễn tạp lục không có chủ đề nào phải theo từ đầu tới cuối. Tất cả chỉ là tưởng tượng và bạn ‘cương’ tới đâu thì hay tới đó.
Ở Úc có lần tôi thấy một cảnh ngộ nghĩnh theo ý nói trên. Có bốn hay năm tinh linh đang chơi dưới ánh trăng. Chúng kể chuyện cho nhau nghe rồi diện y phục, diễn lại tình tiết trong chuyện. Một tinh linh diện cho mình quần áo của ông vua mà anh bắt được gián tiếp, từ ý tưởng của một đứa trẻ khi đọc chuyện cổ tích. Sinh vật ráng tỏ ra đường bệ, nghĩ mình oai nghi lắm, vung tay múa chân luôn. Ngay khi anh chú tâm tạo cho mình vẻ vương giả và nghiêm khắc, anh quên phứt cái vương miện và áo cẩm bào, và hai vật rơi mất lộ hình dạng bình thường của anh trọn vẹn quá khiến cử tọa cười rần rần. Tôi cũng nhớ lại mấy tinh linh khác bắt chước hội Tam Điểm Freemasonry hành lễ, đi tới đi lui áo mão xênh xang mà chúng nhớ được, và lép nhép lời mà chúng không hiểu tí gì.
Một nguồn vui khác của tinh linh là kể cho nhóm bạn chuyện mà chúng phịa ra. Càng kỳ quái, vô lý chừng nào càng hay chừng ấy. Nó như là thi óc tưởng tượng, với những lúc cười nôn ruột xen vào những lúc đột nhiên nghiêm trang rất mực. Tôi chắc cảnh sống toàn chuyện vui đùa như vầy không được loài người ưa làm việc đúng đắn chấp thuận. Nhưng ta nên nhớ rằng tinh linh giống như trẻ thơ, có dư thừa năng lực. Chúng không bị công luận kềm chế như ta, mà công luận lại bầu cả hai tay cho trò vui chơi vô hại này !
CHƯƠNG IV
Đời Sống Tinh Linh
Có sự khác biệt chính giữa cái nhìn của người và của tinh linh, hay của bất cứ loài nào thuộc thế giới thiên thần, là chúng ta sống trong thế giới của hình thể còn chúng sống trong thế giới của sự sống. Tư tưởng chúng ta hướng chính yếu về hình thể sự vật, và ít khi ta đi xa hơn thế. Nhưng tinh linh lại quan tâm chính yếu với năng lực, và sức sống tuôn tràn chung quanh và bên trong hình thể, cái sức sống có ở khắp nơi. Thí dụ khi nhìn vào cái cây ta để ý ngay đến kích thước, hình dạng, màu sắc, lá và quả của cây. Những điều này hợp lại tạo nên vẻ mỹ lệ của cây đối với ta. Nhưng chịu khó suy nghĩ một chút, đó là cái nhìn hạn hẹp về thế giới ta sống. Ngược lại, cái đầu tiên tinh linh thấy là tinh thần của cây và đáp ứng với sức sống của nó.
Đối với sinh vật, cây là vật sống động, là cá thể biết hít thở, biểu lộ mình qua hình dạng ta thấy. Và rồi có sự trao đổi cảm giác, đồng tình giữa cây và tinh linh. Như thế đời sống tinh linh ít bị giới hạn hơn ta, và có nhiều điều thú vị hơn đời sống con người. Loài người chúng ta gặp bất lợi do ngũ quan có giới hạn, nên thường khi ta già cỗi mau chóng, vì tính đơn điệu buồn tẻ của thế giới chúng ta gây chán nản. Ta có cảm tình với chó mèo nuôi trong nhà, và vài người đặc biệt có thể có tình thân đặc biệt với cây hay hoa. Nhưng mối liên hệ giữa tinh linh và sinh vật quanh chúng thì khác hẳn, gần như là một lối sống mới cho ta. Vì đây là điểm quan trọng nên tôi thấy cần phải giải thích thêm.
Thế giới chúng ta được tạo nên bởi đa số các vật vô tri giác, hay vật có vẻ như chết. Chẳng những ta không biết gì về đời sống thực của thú vật, cây cỏ và đá, mà ta còn bị bao quanh vì đời sống của ta có đầy những vật, chỉ toàn là vật, như bàn ghế, thức ăn, xe, truyền hình. Đó là thế giới của đồ vật. Tinh linh không cảm thấy như vậy. Anh sống trong cảnh giới mà mỗi cọng cỏ, lá cây đều tuôn tràn sức sống. Trong thế giới của tinh linh hầu như mỗi vật đều biểu lộ bằng một nhịp điệu nào đó. Cỏ rung động theo một nhịp riêng, mỗi cây là người bạn riêng biệt, hoa, chim, côn trùng, và cá đối với tinh linh như là con cái chúng. Hơn nữa, tinh linh sống trong thế giới đầy tình hữu ái, với hàng ngàn sinh vật không có hình hài vật chất, Mỗi vật, từ con bướm đến cái lá bay trong gió đều chứa đầy sức sống rộn ràng, hân hoan, tinh linh cảm được điều ấy, thấy gần gụi chúng chỉ vì chúng cũng đang sống. Thế giới của tinh linh rung động với sức sống, chuyển động, cảm xúc, và đó là những đặc tính căn bản nhất.
Nhìn kỹ vào cảnh giới mà tinh linh sống cũng cho ta thấy tính chất độc đáo này. Nó không phải là thế giới hời hợt chỉ có bề mặt như lớp da, vỏ bao hột hay cỏ cây với đường phân chia rõ rệt có tính riêng, mà là trạng thái trong đó cái này hòa lẫn vào cái kia theo một cách kỳ lạ: không có cái gì bất động ở trạng thái tĩnh mà tất cả đều sống động. Ta hãy bắt đầu với tinh linh, nhìn anh ta sẽ thấy sinh vật không có da. Thân hình giống như một đám mây. Nếu tìm cách sờ người sinh vật ta sẽ thấy không có điểm nào cho ta nói được rằng ‘Đây là lớp da ngoài’, vì cho dù cơ thể anh đậm dần vào trong, nó đi từ từ và không có lằn phân ranh rõ rệt như lớp da hay lớp lông. Cũng y vậy, cây cỏ và tất cả những vật khác đối với tinh linh giống như là những cột hay đốm sáng chói đầy màu sắc, hòa tan và trộn lẫn rồi mờ nhạt dần vào khung cảnh chung quanh. Nó giống như sống trong thế giới chất lỏng, trong đó sinh vật có hình dạng riêng khá rõ rệt đủ cho ta nhận biết, nhưng chúng luôn luôn sáng rực, trong suốt, thay đổi hình dáng luôn và hòa vào nhau.
Bởi anh sống trong thế giới luôn rung động với sức sống, anh có lối nhìn riêng về sự việc. Nó đơn giản hơn cách chúng ta. Sinh vật rất thực tế hơn hẳn người. Chúng không có tình cảm phức tạp hay ý tưởng rắc rối như ta, vì chúng không có óc chiếm hữu, sợ hãi hay ganh tị. Thế nên chúng không có ảo tưởng, mà lại có khả năng nhìn sự vật rõ ràng, đi ngay vào điểm chính. Đúng là chúng thích diện y phục và tưởng tượng lắm trò, nhưng sinh vật hoàn toàn ý thức mình làm gì. Nó chỉ là trò vui đùa với chúng mà không phải là phương tiện để trốn chạy thực tế khe khắt. Chúng không có gì phải dấu diếm, và không cần phải tránh né điều gì. Nếu có cánh rừng bị cháy tinh linh không tìm cách tự dối mình, chúng chấp nhận như vậy. Chúng nhận chịu những việc không vui (xét ra khá ít), cùng với vô số chuyện vui.
Xa hơn nữa, có một điểm khác biệt đáng kể giữa người và tinh linh. Chúng ta sống trong thế giới vật chất đậm đặc trong đó óc tưởng tượng và tình cảm của ta đóng một vai trò; quả đúng vậy, nhưng đó là vai trò do ta tạo nên và bị giới hạn. Còn tinh linh không bị ngăn trở bởi vật chất đậm đặc. Chất liệu thô kệch nhất trong cơ thể chúng lại thanh nhẹ và mỏng mảnh hơn cả khí hiếm của ta, nó rất gần với tình cảm nên khi chúng cảm xúc điều gì, tình cảm ấy thấu nhập trọn thân người sinh vật, chảy ào ạt qua đó. Trên thực tế hầu như chúng chẳng làm gì khác ngoài việc có xúc cảm và cảm nhận sức sống. Ngoại trừ một số nhỏ đã tiến hóa xa, tinh linh không có khả năng trí tuệ mấy.
Tôi không ngụ ý rằng chúng không thông minh, nhưng sinh vật không phải tranh đấu để sống hay để được vui sướng ngập lòng. Chúng không phải lo lắng những chuyện làm cho đời sống vật chất nhọc nhằn, như cảnh nghèo, đói khát, nhà cửa. Tinh linh không cần tiền, cũng không có ai lệ thuộc vào chúng.
Thành ra, mục tiêu trong đời của chúng rất khác biệt với ta. Đúng là tinh linh so với thiên thần giống như loài vật so với người, và cũng đúng là thú vật không bị thúc đẩy hay có đòi hỏi nhiều như ta. Nhưng thú vật sống giữa cái mà ta gọi là kẻ thù thiên nhiên, trong khi tinh linh sống giữa bạn hữu tự nhiên. Do đó chúng sống vui vẻ, hồn nhiên từ ngày này sang ngày khác, bận tâm với công việc thú vị và mục đích của chúng là chơi đùa mỗi ngày, càng lúc càng nhiều hơn trong sự sống tràn đầy.
Tuy nhiên chúng ý thức rất rõ mình là phần tử của một cơ chế hợp tác vĩ đại. Nên chúng có lòng xác quyết lạ lùng. Thiên thần luôn hiện diện để hướng dẫn và kích thích chúng lên mức phát triển cao hơn. Chúng ngưỡng mộ và đầy lòng kính yêu (nhưng không sợ hãi) đối với thiên thần chăm nom đời sống và việc làm của chúng. Có lần tôi hỏi một tinh linh bạn, ai là thượng cấp và coi sóc vùng này, và câu trả lời của anh thật ngộ nghĩnh. Anh bắn mình lên không vài thước để tỏ nỗi vui mừng khi nói về vị cao cả hơn anh nhiều, và với người mà anh có đầy tình thân ái. Đồng thời cũng để cho tôi thấy lòng kính trọng sâu xa của anh với vị này, tinh linh cúi người thật sâu nhiều lần, thấp đến mức đầu chạm ngón chân, cố cho tôi hiểu rằng đó là vị rất quan trọng.
Chuyện vừa kế cho thấy nét hồn nhiên và vui sướng thấm nhuần trong tình cảm sinh vật ra sao, kể cả cảm xúc thành kính. Loài người có hệ thống đạo đức chỉ định phép xử thế nghiêm nhặt trong đời; đạo đức cho ra luật lệ hàm chứa lòng sợ hãi bị trừng phạt. Cố nhiên tinh linh không có chút ý niệm nào về các điều này. Chúng là hình ảnh xác thực nhất của câu ‘Hãy xem hoa huệ ngoài đồng không phải làm lụng hay dệt vải khó nhọc, nhưng vua Salomon vinh hiển là vậy mà cũng không mặc đẹp bằng các hoa ấy’. Tiêu chuẩn của ta về đúng, sai không áp dụng được cho loài bé nhỏ này. Thế giới của chúng không có thiện hay ác, mà chỉ có lòng yêu thích sâu đậm sự mỹ lệ và toàn hảo. Điều mà mỗi kẻ trong bọn nỗ lực tiến tới là mỹ lệ trọn vẹn và tuyệt đích. Nhưng nỗ lực ấy không hàm ý gắng công hay tranh đấu, mà đúng hơn là sự kích thích thường xuyên và là niềm vui rộng lớn. Tôi cho là nỗi ước ao hằng có trong nội tâm về mỹ lệ ở trong mỗi tinh linh khiến chúng tỏa rạng niềm vui. Ta không nên nghĩ là chúng toàn thiện. Có lúc chúng giận dữ, ghen tức nhưng biến đi rất nhanh. Với chúng ta tình cảm bất lợi sôi sục trong lòng như chất độc, nhưng với tinh linh chúng không giữ lại điều gì, không tàn dư xúc động nào làm vẩn đục cuộc sống của chúng.
Cái gần giống như sự sợ hãi mà tinh linh có kinh nghiệm là cảm xúc của chúng về loài người. Thế giới của chúng cũng có việc xấu xa làm chúng kinh ghét. Thí dụ tinh linh nước tìm cách tránh những sinh vật to lớn như khỉ đột sống dưới biển sâu, và cả hai cùng ngụ trong một thế giới, một chất liệu. Nhưng chúng có thể ghét một vật mà không sợ vật ấy, vì chúng hiểu; còn với con người có nhiều điều nằm ngoài tầm hiểu biết của chúng. Động lực của ta đối với chúng hoàn toàn xa lạ, và chúng không sao dò được phản ứng của ta đối với chuyện gì, thế nên sinh vật nhìn ta với lòng sợ hãi vì theo chúng, loài người lắm khi tàn nhẫn vô lý với thiên nhiên mà chúng mến yêu. Chẳng hạn việc giết các loài chim xinh đẹp và thú rừng, cùng nỗi đau đớn mà thú vật phải trải qua trước khi chết là chuyện làm tinh linh kinh hãi. Việc giết chóc trong thiên nhiên xày ra mau lẹ, nhằm mục đích quân bằng thiên nhiên và xẩy ra không gây đau đớn mấy. Nhưng giết để mua vui, gây kinh hoàng cho thú khi làm vậy, là nỗi khủng khiếp con người gây cho tinh linh. Chúng không hiểu súng để làm gì, và tiếng nổ lớn làm tinh linh kinh sợ hồn vía lên mây.
Tôi có dịp thấy tình thân gắn bó giữa hai tinh linh, thường là sinh vật cùng loại, như cùng là tinh linh nước hay đất. Một cặp hay đi chung với nhau, làm việc chung và bất khả chia lìa. Cảnh tượng đáng yêu này rất cảm động, khi chúng quàng tay qua người nhau lộ tình thương mến. Đôi bạn nói chuyện về công việc, tỏ ra cùng ưa thích nhiều điều và chơi với nhau hết sức đằm thắm. Không giống như thú vật sinh con đẻ cái, tinh linh đầu thai do thiên thần mang xuống trần nên trong loài này, nhất là trong các loài ở mức tiến hóa dưới trung bình, sinh vật không có phái tính mà có giao cảm với nhau. Tức là sinh vật năng động có cảm tình với sinh vật thụ động hơn. Chẳng hạn cây sồi sẽ có hảo cảm đặc biệt với cây du bên cạnh, khác với cảm xúc nó có với cây sồi khác cùng loại.
Nhưng tình cảm này trầm lặng hơn xúc cảm sôi động của tinh linh. Chúng cũng có ghen tị. Thí dụ tôi biết hai tinh linh yêu quý nhau tỏ ra bực mình với tinh linh thứ ba muốn chen vào cặp này. Tôi nhớ có hai tinh linh màu xanh lục quấn quýt nhau mà bị một tinh linh xanh dương tới đòi kết bạn. Một trong hai tinh linh xanh lục than phiền với tôi về việc ấy. Anh muốn bạn thuộc hẳn về anh mà thôi, và phát ra tư tưởng ghen tuông màu lục coi thật ngộ nghĩnh. Trong lúc nói có khi anh dậm chân đùng đùng nổi dóa, rồi phút sau có chuyện chia trí, khiến anh vui tươi hớn hở, quên béng chuyện rầu rĩ của mình, và rồi nhảy tưng tưng cùng khắp, đầy lòng yêu đời. Tinh linh ít khi buồn lâu. Về sau tinh linh màu xanh dương tìm được bạn cùng loại và cảnh sống cả bọn bình yên như cũ.
Tôi cũng được thấy sự ghen tị của chúng đối với người, biểu lộ theo cách khác hẳn. Chẳng hạn tại Úc, tôi có bạn tinh linh mà tôi rất thương mến và gọi là Chú Nhỏ đã nhắc ở chương hai. Vì rất thích anh nên tôi thường chỉ nói chuyện với riêng anh. Lắm khi tinh linh chung quanh tỏ ra ganh tị khi thấy tôi chỉ nói chuyện với anh và như không để ý gì tới những kẻ khác. Lần kia có tinh linh màu xanh lục đứng cách tôi chừng 6 m, nhìn tôi giận dữ hết sức. Anh ta bực vì tôi không để ý tới anh và không ngó công việc của anh làm; anh thấy mình cao cấp hơn đồng loại và mong được tôi khen. Sinh vật thực tình nghĩ là mình giỏi lắm. Nhiều lần ngoài vườn khi tôi chỉ khen một loài hoa nào đó trong số các hoa, và tinh linh coi sóc chúng có cảm tưởng bị bỏ quên. Tuy nhiên nỗi khó chịu không có lâu. Về phương diện này chúng giống thú vật và trẻ con, không nuôi giận hờn.
Cũng có lúc tinh linh trầm tư suy nghĩ. Chẳng hạn chuyện không ổn xẩy ra cho cây mà chúng chăm nom sẽ làm chúng thắc mắc, khi đó sinh vật dừng lại ngẫm nghĩ. Có một chuyện ngộ nghĩnh xẩy đến cho cây cà phê đem từ Costa Rica về trồng trong vườn của bạn tôi ở Californnia. Tự nhiên là tinh linh ở Costa Rica không đi theo với cây cà phê, nên khi cây này có mặt trong vườn thì các tinh linh ở đây tỏ ra bối rối, không biết phải làm cách nào tốt nhất để giúp cho cây. Chúng tụ họp nhau bàn cãi nghiêm trang lắm, nhưng trong một thời gian dài cây cà phê vẫn không lớn lên được, và chuyện làm tinh linh có trách nhiệm lo nghĩ không ít. Rồi chúng nhận được lời chỉ dẫn, và sau rốt cây cà phê khởi sắc và mọc tươi tốt.
Như đã nói, tinh linh hoạt động chính ở lãnh vực tình cảm. Sinh vật chú tâm đến phần việc phải làm, phần lớn là bản năng nhưng có cảm xúc rõ rệt về mọi chuyện. Đời sống của chúng thiên về tình cảm nhiều hơn là tư tưởng. Trọn thế giới và nhất là chất liệu tạo nên cơ thể chúng là sức sống và tình cảm, hơn là vật chất hồng trần và óc lý luận. Thế nên chuyện tự nhiên là chúng giỏi về cảm nhận cũng như chúng ta giỏi về tạo hình và làm chủ vật chất cõi trần. Nói chung, những cảm xúc này rất phấn khởi và tốt lành, đôi lúc cũng có tinh linh cãi lời và suy nghĩ khác lạ, từ chối không chịu làm việc hoặc gây gỗ với bạn bên cạnh. Tôi chưa thấy trường hợp nào cả nhóm nổi loạn. Kẻ gây rắc rối thường bị bạn bè tránh né, anh bị tẩy chay không ai chơi với. Một người bạn của tôi chứng kiến một trường hợp hi hữu, khi có tinh linh gây gỗ miết với bạn của mình, cuối cùng vị thiên thần thượng cấp dàn xếp với vị thiên thần khác để chuyển tinh linh đến nơi xa hàng chục cây số. Mới đầu anh tỏ ra thiểu não vô vùng, nhưng sau lấy lại được sự vui vẻ hồn nhiên lúc trước. Chuyện như vậy rất hiếm khi xẩy ra vì tôi chưa bao giờ gặp. Tinh linh không bị cột chặt vào nơi chốn hay khu vườn nào mãi. Thỉnh thoảng anh cũng nẩy ý qua nơi khác làm việc, và đó được coi là chuyện bình thường, tự nhiên và dễ dàng. Ai chăm sóc vườn tược, biết thương yêu lo lắng cho cây cỏ, và cảm được sức sống bên trong của chúng, sẽ thu hút nhiều tinh linh về với mình hơn là ai vô tình về mặt ấy.
Tất cả tinh linh đều thích những gì non, trẻ bất kể đó là trẻ con, thỏ, mèo, cá hay cây cối. Vẻ thơ dại rất lôi cuốn chúng, theo ý tôi một phần là vì hai bên có sự cảm thông với nhau, phần khác vì chúng cùng tràn đầy lòng yêu đời, vui sống. Trẻ nhỏ và những sinh vật non dại khác rất cởi mở với tinh linh. Ngược lại chúng cũng rất thương yêu trẻ, nhìn ngắm chúng thích thú đầy niềm vui, và còn bắt chước các trò chơi của chúng nữa. Tinh linh cũng làm y vậy với những chú nai con hay thỏ con. Tinh linh trông chừng chúng, và tôi cho là mấy con vật này thấy được tinh linh, vì xét ra chúng gần gũi thiên nhiên hơn chúng ta và nhờ đó khả năng nhậy cảm chưa bị cùn nhụt như ta. Vào mùa xuân, tinh linh biết từng con nai tơ, thỏ con, và sóc con, tìm hết cách bảo vệ càng nhiều càng tốt bằng cách gửi tư tưởng vào đầu con vật, và làm tăng bản năng thiên phú lên người chúng. Cảnh tinh linh đùa giỡn với những con cừu con trông rất dễ thương, có lúc sinh vật nhẩy nhót chung quanh để khích lệ chúng nữa. Cả hai có tình quyến luyến và hết sức thân ái. Có mối liên hệ rất đặc biệt giữa tinh linh và loài chim, nhất là với chim con. Tinh linh sẽ nhẩy cà tưng để làm chim chú ý đến con sâu, và nếu đó là loại sâu hay bọ có hại cho vườn thì càng tốt cho tinh linh, và càng tệ cho sâu.
Cái nhìn của những loài tinh linh khác nhau - lửa, đất, nước v.v. - thường dị biệt, vì chúng có những quan tâm riêng. Thí dụ tinh linh đất chú ý đến loài người trong khi những tinh linh khác thì không. Tinh linh đất biết thói cư xử kỳ quặc của ta (theo ý chúng), tỏ vẻ nghi ngại và e dè đối với ta, nhưng với loài tinh linh khác thì hoặc chúng dửng dưng, tò mò hoặc cả thù nghịch nữa. Tinh linh đất di chuyển trong những vùng rộng lớn không thường xuyên bằng tinh linh không khí hay nước. Về một số khía cạnh, tinh linh đất khác tinh linh nước giống như thú dưới nước khác thú trên bờ. Tinh linh nước hay đi từng nhóm đông, trong khi tinh linh đất đi nhóm ít người hơn, và nói riêng về tinh linh đất, có thật nhiều tính khí khác nhau. Tinh linh đất có nhiều óc tưởng tượng hơn, và do đó muốn giống người nhiều hơn, bắt chước hành vi của ta vì chúng nghĩ loài người thật lạ lùng và ngộ nghĩnh; chúng cũng biết rằng con người thông minh hơn chúng. Thành ra tinh linh đất có hơi giống người trong phản ứng với những việc xảy ra chung quanh chúng, cũng như là với con người.
Cái chế ngự cảm xúc của tinh linh ngụ trên biển là nhịp điệu, hiện tượng ấy đóng vai trò lớn lao trong đời sống mọi tinh linh, thể hiện qua sự trồi lượn của sóng nơi cõi trần. Tự nhiên là mỗi loài có ý thức về chất liệu mà trong đó chúng sống, ta có thể nói một nhóm có cảm giác về nước, nhóm khác về lửa v.v. Nhưng mỗi loài cũng có ở cõi vật chất cái làm cho chúng có đặc tính riêng. Với tinh linh nước, nước cho chúng tính hữu hiệu. Chúng di động không ngừng, tựa như mặt biển luôn sinh động, và cũng như biển cả là một khối khổng lồ không có mấy chất khác biệt, các tinh linh biển cũng là một nhóm giống nhau. Tinh linh của hồ có cùng tính ấy, và tinh linh suối thì lấy việc nước chẩy liên tục làm căn bản cho họat động của chúng.
Qua tinh linh không khí, độ cao cùng khoảng cách rộng lớn và cảm giác gần như là tự do hoàn toàn khỏi ràng buộc vật chất là nét chính của chúng. Có lẽ vì vậy mà chúng là loài tiến hóa xa. Chúng không bị giới hạn trong không gian cũng như vào vật chất nhưng đồng thời hình dạng kém rõ rệt hơn và cái nhìn cũng không xác định.
Tinh linh lửa cũng độc lập y vậy với ảnh hưởng con người, nhưng xét cho cùng chúng lại bị ràng buộc vào một hiện tượng vật chất. Tinh linh lửa cho ra một cảm giác tươi mát và thanh sạch. Vì chất của chúng - lửa - giống như đường nối từ thế giới này sang thế giới khác, có vẻ như chúng lưng chừng ở giữa, có đặc tính của cả hai thế giới. Khó mà tả cái nhìn độc đáo của chúng. Tinh linh nhìn sự sống như việc trôi chảy không ngừng ra vào hình thể, và như vậy chúng là trung tâm của việc chuyển hóa trong vũ trụ.
Tinh linh nói chung có khái niệm lờ mờ về Thượng Đế, nếu nghĩ tới điều ấy chút nào thì chúng cho ngài là hiện thân cho nền tảng của vũ trụ ổn định, trong đó chúng thấy mình đang sống. Tinh linh không bị đau khổ như ta, vì việc tranh đấu để sống còn và gây ra phần lớn đau khổ cho con người không có trong cảnh sống của tinh linh. Chúng đau khổ đôi chút khi việc không được như ý trong thế giới của chúng, nhưng đó không phải là đau khổ theo đúng nghĩa như trong đời ta sống. Tôi nghĩ chúng không biết đau đớn là gì, tuy chúng biết có điều ấy do chứng kiến nơi thú và các sinh vật khác. Đôi khi tinh linh muốn làm người và đã có trường hợp như vậy, và chỉ bằng cách ấy chúng mới cảm được sự lo lắng và khó khăn của ta. Tinh linh ngưỡng mộ ta về nhiều khía cạnh và nếu chúng ta tỏ ra dễ thương, nhận biết sự hiện hữu của chúng, tinh linh sẽ rất vui mừng làm bạn với ta.
Tuy biết ít ỏi về Thượng Đế, tinh linh có một ý niệm mù mờ nhưng rất đẹp về những vị cao cả trên thang tiến hóa, như thiên thần chăm sóc chúng, vị đối với chúng là người sáng suốt nhất và điềm tĩnh nhất đời.
CHƯƠNG V
Tinh Linh Đất
Tổng quát thì tinh linh đất là nhóm rất đông và phức tạp, đến nỗi tôi thấy khó mà nói cho hết trong chỉ một chương sách. Dù vậy tôi hy vọng là nếu ghi lại vài nhóm chính và mô tả chi tiết một số tinh linh mẫu, ít nhất độc giả sẽ có được cái nhìn chung.
Trước tiên tôi cần giải thích rằng có bốn nhóm chính liên hệ với đất. Đầu tiên có loài sống bên trên, và có loài sống bên dưới mặt đất; mỗi loại lại chia làm hai. Trên mặt đất có tinh linh với cơ thể vật chất hồng trần mà tinh linh cây là thí dụ rõ nhất, và tinh linh mà cơ thể thanh hơn như tinh linh rừng hay vườn. Dưới mặt đất nhưng đôi khi cũng sống trên mặt có tinh linh với cơ thể hồng trần, thuộc về những tảng đá khổng lồ có cá tính, tương ứng với tinh linh cây mà không thông minh bằng, và tinh linh có liên hệ với đá có cơ thể bằng chất thanh gọi là chú lùn - gnome.
Bốn loại phân biệt rõ ràng: cây, tinh linh rừng, đá và gnome. Nhưng trong lòng đất và trên mặt đất còn vô số những loại phụ và cá nhân riêng rẽ, nhóm này lan vào nhóm kia gần như không phân biệt, với nhiều nhóm trung gian có cả tính trên mặt đất và dưới mặt đất. Tôi sẽ bàn vào chi tiết tinh linh đá, và cũng sẽ nói luôn về một số sinh vật giống gnome sống phần lớn dưới đất; trong hai chương sau về rừng và tinh linh vườn tôi sẽ tả tinh linh cây và các tinh linh rừng sống trên mặt đất liên hệ với cây.
Nhưng tôi cần nhắc lại là vì có không biết bao nhiêu loài tinh linh gnome, nên ta không sao làm bảng phân loại chúng được. Thí dụ có loài tinh linh nhỏ mầu vàng chói và nâu giống như gnome mà phục phịch hơn, khi thì sống trên mặt đất lúc thì sống trong lòng đất tùy theo chúng làm việc gì. Chúng có nét mặt thật già, hai mắt to đen nhánh tinh anh. Nói cho đúng sinh vật không phải là gnome, nhưng trên người chúng có cái giống như một lớp lông mềm như tơ, mướt như da hải cẩu phủ khắp người, hàm dài làm ta tưởng như chòm râu nhọn. Chất như len phủ đầu cũng chúm nhọn lên một điểm, nên trọn đầu giống như hai hình tam giác chồng lên nhau. Cử động của tinh linh gẫy gập, không thanh bai như đa số sinh vật thần tiên khác.
Ta thấy chúng ở vùng quê nơi có nhiều cây mọc ngoài cỏ. Chúng sống thành bầy có hơi giống thỏ vì tinh linh thích sự rung động của đất. Chúng là tinh linh của bờ cây bụi cỏ, và cũng làm công việc của tinh linh khác và thường làm cho tinh linh của vật đang tăng trưởng, là giúp đỡ sự sống với sinh lực mà chúng chuyển hóa và tiếp dẫn, nhất là từ rễ dưới đất; tinh linh cũng để ý tới sự sống côn trùng như kiến, ong và sâu. Chúng sống cộng đồng, liên hệ chặt chẽ với nhau, thảo luận về công việc và tin tức từ thế giới tinh linh rộng lớn bên ngoài. Nhìn chung thì chúng có đời sống rất vui vẻ và sinh vật cũng rất thích chơi trò ‘diện áo’, đi trình diễn trước mặt nhau đầy óc khôi hài, cười nhạo mình cũng như cười người, ôm lấy đầu gối ngả nghiêng và nhẩy cỡn thích thú.
Tinh linh rất cần mẫn siêng năng, luôn có việc để làm, đôi khi với vẻ trịnh trọng buồn cười như của thương gia. Chúng chỉ lo phần mình và ít khi giao thiệp với các loài tinh linh khác, sinh vật như làm thành một loài riêng vì chúng hết sức chú tâm vào hoạt động của kiến và con vật bé nhỏ khác, giúp với hết khả năng mình. Tinh linh thuộc vào loài rất xưa nên có lẽ do thế mà chúng có nét mặt già lão, và cũng có thể vì vậy mà chúng tỏ ra dửng dưng và có tinh thần nhóm chặt chẽ. Sinh vật nhìn con người với lòng hiếu kỳ mà rụt rè, để ý những thói quen của ta tuy không hiểu chi, nhưng không tỏ ra có cảm tình đặc biệt hay ưa thích gí ta cả.
Có những sinh vật khác màu nâu đậm gần như đen, sống sâu trong đất, cao chừng 60 cm hay hơn. Chúng mang hình thù lạ lùng như kỳ nhông, nhìn lạ không tả được. Tinh linh kém thông minh, sống thành bầy gần như thú gần như không có chút suy nghĩ. Trông chúng thật là bí ẩn nhưng tinh linh có năng lực và giống như các tinh linh khác làm việc không ngừng nghỉ. Tôi không sao liên lạc được với chúng vì xem như chúng mê mải làm việc của mình hơn là để ý tới người.
Trong một chương sau tôi sẽ kể đến hai loại tinh linh có liên hệ với Grand Canyon: một loại có màu tím và đỏ rực như lửa, cao chừng 60 - 90 cm. Tôi chưa thấy loại nào lớn hơn ở những nơi khác. Tinh linh cho cảm tưởng tràn đầy niềm vui rộng lớn, khiến người lâng lâng, và chúng cũng thông minh lạ thường, có khả năng tập trung tư tưởng mạnh hơn những loài khác. Sinh vật tỏ ra quyết chí và nhất tâm đáng kể. Hình dạng chúng cũng lạ lùng, giống như loài cá, phẳng phiu như không có bề dày nếu nhìn từ trước tới, nhưng lại cân đối nếu nhìn ngang. Nhiều tinh linh thấy mỏng dù nhìn theo hướng nào, và lại càng tỏ ra hốc hác nếu nhìn từ trước tới, vì đôi mắt đã nhỏ lại nằm gần với nhau, vai và nói chung cả người rất mảnh khảnh. Tuy vậy khi nhìn ngang chúng lại cân đối bình thường dù mặt dài, mỏng có màu nâu đỏ. Công việc của chúng cũng đặc biệt. Chúng là trung tâm lực bên trong những dòng từ lực của Grand Canyon, tái phân phối lực sống tuôn vào người chúng.
Tinh linh màu nâu và đỏ của vùng này giống gnome nhiều hơn về cả dáng dấp và cách sinh hoạt. Chúng làm việc với sự sống độc đáo nơi đây. Tôi không rõ đó là công việc gì, nó có liên quan đến sự tăng trưởng, nhưng tôi không biết có thể có sự tăng trưởng nào chăng dưới lòng đất. Nếu đá thay đổi tính chất do ảnh hưởng của áp suất thì tôi cho là tinh linh có liên quan đến việc ấy. Sao đi nữa sự thay đổi xẩy ra nhờ chúng trợ giúp thường rất chậm. Sinh vật hành động một cách đắn đo, cẩn trọng. Tinh linh già lão và chậm chạp, và công tác của chúng đòi hỏi sự kiên nhẫn, trì chí. Tất cả những sinh vật giống gnome và làm việc sâu dưới mặt đất với đất đá, cho cảm tưởng chúng thuộc về loài hết sức cổ, từ đời cố lũy cố lai nào. Một nét chung khác của những loài gnome là chúng đi thành bầy hay đoàn, tính khác là chúng thích ấm áp, hễ có mưa trên mặt đất hay trời trở lạnh là chẳng mấy chốc gnome chui xuống đất như cũ.
Một loài tinh linh đất mà thấy như có khắp nơi chỉ cao chừng 30 - 45 cm, màu nâu vàng chói hay xanh lục đậm. Nhìn chúng giống như chuột vì tai khá dài và hay nhẩy nhót lung tung. Một biến thể của loài này là loài tinh linh giống như gấu bông, màu nâu nhạt ở trên và nâu đậm từ thắt lưng xuống. Chúng rất vui sống, đầy hoan lạc nhưng có ít thông minh. Sinh vật đi hai chân nhưng di chuyển giống như chuột vì cử động bất chợt mà lẹ làng. Tinh linh cũng sống thành bầy và hết sức bận rộn với cái mà chúng cho là quan trọng lắm lắm. Chúng ngụ dưới đất trong rừng, sống giữa rễ cây hay trong cỏ cao, coi sóc rêu mọc sát đất. Loại này dường như chăm lo phần sinh lực trong các sinh vật mọc thành thành cụm. Đó là những chú lùn rất bắt mắt và ngộ nghĩnh vô cùng, nhưng khó nói chuyện vì ý nghĩ chúng không rõ ràng, đồng thời chúng cũng bắt tư tưởng của người một cách chậm chạp. Chúng trốn đi mất khi gặp người. Ta có thể nói hình chú lùn leprechaun của Ireland rất giống các tinh linh này.
Không một tinh linh nào vừa kể là gnome đúng nghĩa cả, nhưng tả chúng cho ta một ý niệm về sự phức tạp sâu xa và nét phong phú trong đời sống của tinh linh đất. Và đó là chưa nói đến những gì xày ra bên dưới mặt đất. Ấy là nơi rất lý thú và phức tạp và chắc chắn còn nhiều sinh vật ta chưa thấy hơn những loài đã ghi. Đối với ta nhiều loại kỳ dị và không đẹp đẽ chút nào, nhưng tôi nghĩ nói về chúng không bỏ công, vì chúng liên hệ rất ít với đời sống con người, và bình thường ta không có liên lạc chi với chúng. Khi ta để tâm thức chìm qua mấy từng đất đá vào lòng địa cầu, quả đất thật đúng nghĩa là Mẹ Đất, nơi sinh ra và là nguồn sống cho không biết bao nhiêu sinh vật.
Gnome đúng thực sống gần hay ngay dưới tảng đá. Chúng có hình dạng các chú lùn trong chuyện thần tiên: mập, lùn, râu xám. Tứ chi cùng một màu, thân thể màu khác làm cho chúng có vẻ như mặc áo nịt bằng da. Thường thì cơ thể có màu đậm hơn tứ chi. Bàn chân to, nhọn và không có nét rõ rệt nên ta tưởng như gnome đi giầy nhọn mũi. Tay cân đối so với thân người, dài và rắn chắc, bàn tay nổi u cũng không có nét rõ ràng. Những nét chính của gnome chỉ thấy rõ ở đầu và khuôn mặt. Khoảng cách giữa mũi và mắt và miệng rộng hơn ở người, làm cho đầu có vẻ phẳng như là cái xẻng. Cằm dài quá khổ và nhọn như có râu, trên đầu ai cũng như có đội nón.
Mới rồi tôi có nghiên cứu về nhóm gnome trong khối nhiều tảng đá lớn. Tôi phải nói rằng chúng có vẻ dữ tợn, không có vẻ ưa thích người. Tinh linh thò đầu ra khỏi đá xem người đến nơi này mặt mũi ra sao. Gnome như vậy thấy nhiều ở miền quê có những tảng đá khổng lồ và chẳng có gì khác. Chúng thấy mình hòa chặt chẽ với khu vực và cảnh vật chung quanh. Nếu bạn thắc mắc chuyện gì xảy ra cho tinh linh đá hay gnome khi ta đào mỏ, đặt mìn, làm vỡ đá, hay vách đá dọc theo xa lộ, thì câu trả lời là chúng biến đi. Chỉ có thế thôi. Chúng rời nơi ấy đi mất. Và tại sao không, khi xe cần trục khổng lồ, xe ủi đất chạy tới lui ầm ĩ xúc đá, rồi sau đó xe hơi lao vùn vụt trên đường ? Ta đã đuổi chúng đi.
Tinh linh luôn thấy tụ thành nhóm bốn hay năm kẻ với nhau, vì chúng chưa phải là cá nhân độc lập như tinh linh vườn. Chúng có lòng ưa và không ưa rõ ràng, nhưng trí thông minh còn thấp, và tình cảm còn rất sơ khai. Vừa rồi quan sát tinh linh, tôi cảm thấy lạ lùng khi biết mình hấp dẫn được chúng, vì gnome nhận ra tôi có khả năng thấy chúng và nói chuyện nếu tôi muốn, và đồng thời chúng cũng muốn tránh xa tôi, vì tinh linh không muốn bị người lạ quấy rầy. Đa số tinh linh thích chuyện mới lạ nhưng các chú này không thích chuyện thay đổi, bất cứ là điều chi. Nhìn ngắm chúng là điều thú vị, vì gnome khác biệt so với đa số tinh linh, và lấy được lòng tin của chúng cũng là chuyện vui. Từ từ từng chút một, chúng chậm chạp làm quen với ta và sẵn lòng nói vài điều. Nhưng hiểu rõ các điều ấy cũng khó vì chúng liên quan tới đời sống bí ẩn của tinh linh. Cái thích thú nhất trong các điều này là tinh linh coi đá như bạn và là sinh vật linh động.
Mà gnome nghĩ đúng, ví đá thực tình sống động. Ít nhất chúng có khả năng đáp ứng mù mờ, tuy nghe hơi lạ. Trải qua bao thời gian những hòn đá lớn già lão bắt đầu có cá tính một cách chậm chạp, tùy theo tính chất căn bản và kinh nghiệm của chúng. Khi nói tới đáp ứng, tôi muốn nói hòn đá già cỗi có thể cảm nhận dù rất mơ hồ, lòng thích hay không thích một ai nếu nó đã gặp người ấy nhiều lần. Nếu ai có thói quen tới ngồi trên hòn đá thường thì hòn đá có thể có cảm tưởng thích hay không thích họ. Không phải chuyện xảy ra cho bất cứ người nào, mà chỉ cho ai có cảm tình với hòn đá trong lòng, hay ai đã kinh nghiệm sự giao cảm với thiên nhiên.
Ở Úc tôi có vài kinh nghiệm với đá. Tôi luôn luôn dành cảm tình đặc biệt cho đá, như tình thương cho chó mèo. Tại Sydney có một hòn đá đặc biệt mà tôi hay đến chơi, ngồi hàng giờ nhìn ra cảng. Hòn đá biết khi tôi đến và ngồi lên nó, và đá cho ra một cảm giác hài lòng, tuy mơ hồ nhưng giống như của con chó lúc tôi về sau khi vắng nhà nhiều tuần. Cảm được phản ứng của đá làm tôi khoan khoái, vì nó hòa vào cảm giác của biển và cây cối quanh tôi. Nó cho tôi sự hòa điệu rộng lớn. Khi tôi đứng lên về, hòn đá đã tỏ ra buồn bực, không hiểu vì sao tôi lại bỏ đi. Thật đáng tội nghiệp vì hòn đá cố hết sức để cảm nhận mà chỉ có được cảm xúc mù mờ. Giống như ta thấy người câm điếc tìm cách nói lên ý của họ.
Trong những đoạn dưới đây tôi trích lại kinh nghiệm của người biết về chuyện này hơn tôi. Tôi biết vài hòn đá tả trong đó, nằm ở một công viên lớn tại Úc. Viên đầu tiên nằm ở bờ suối, có rễ cây to quấn đầy.
‘Tìm hiểu về sự cấu tạo của sinh vật đơn giản này, ta thấy thể sinh lực có tổ chức khá rõ ràng. Ít nhất ở hòn này và những hòn khác, khởi đầu cho bộ máy tâm thức. Hòn đá có tinh thể đá là chất ở cõi trần, thể sinh lực và một thể tình cảm vừa chớm. Thể sinh lực làm bằng chất ether, chiếm cùng chỗ như phần sa thạch vật chất mà nở rộng hơn một chút; thể tình cảm lại rộng hơn chút nữa. Thể sinh lực có cái mà trước đây chưa thấy, như một cái nhân thấy trong tế bào. Nhân ấy có vai trò đặc biệt để ghi nhận kinh nghiệm, cho phép ai có thiện cảm với đá giúp thêm được sự nẩy nở và tăng trưởng của nó. Để tay lên đá cũng đủ khiến năng lực truyền qua nó và hòn đá thích thú điều ấy và sử dụng được năng lực. Đó là nói về bề mặt đá, nhưng nếu dòng năng lực được hướng thẳng tới cái nhân, lực sẽ lan ra khắp sinh vật, tựa như tuôn chất gì vào cơ thể và trái tim luân chuyển máu đi khắp người.
‘Có cá tính không phải là chuyện lạ đối với đá. Tìm hiểu thêm ta thấy có ba trường hợp giống như trên, và chắc còn nhiều nữa. Nó cho thấy tâm thức kim thạch lạ lùng thô sơ đang linh hoạt, cho ta cảm tưởng là một mỏ kiến thức phong phú chưa hề được khai quật đang chờ đợi người.
‘Hòn đá vừa nói tỏ ra thân thiện trong vòng khả năng của nó, cho thấy mầm mống tình thương và lòng biết ơn, và sẵn sàng đáp ứng với hết sức mình. Trong tương lai khá xa nó sẽ phát triển thành sinh vật thân thiện, tận tụy, trung thành rất mực với bạn bè, gần như lệ thuộc vào đối tượng mà nó tôn thờ.
‘Hòn đá thứ nhì nằm ở con đường đã có từ xưa nhưng nay ít được dùng, khác xa với sinh vật vừa nói. Thay vì cởi mở với tình thân của người, nó gạt bỏ hẳn, nói lên ý rõ ràng là ’Đi chỗ khác, để tôi yên’. Nó tiến hóa còn kém hòn trước nhưng đã khởi đầu có sức mạnh và lòng quả quyết trong đá, cho thấy một quyết tâm cứng như sắt trong tương lai kèm với lòng ích kỷ và không kể đến người khác. Tiên đoán như vậy về đá có vẻ xa vời, viễn vông nhưng cái mầm nằm rõ nên thấy hoa trái kết quả về sau không khó. Một phần lớn của đá bị cắt để làm đường, có thể điều ấy có liên can đến tính không thương người của đá.
‘Hòn đá thứ ba rất to nằm ở vách núi sừng sững, hình mái, nhô ra như cái mái bên trên cái hang nhỏ lạ kỳ, chỉ leo lên được bằng lối khó trèo. Bên trong có một cái hang khá dài và xem ra hang được dùng trong trường hợp thú vị. Một thổ dân chạy trốn một nhóm thổ dân khác đang rượt với lao dài, anh bắt gặp cái hang này lúc chạy ngang qua và leo lên như khỉ, trong tích tắc nhóm kia chạy đến và mất dấu, cho rằng anh đã lọt hố rồi. Chuyện ly kỳ ấy thành một biến cố lớn lao trong cảnh sống đơn điệu của hòn đá, để lại ấn tượng thật mạnh mẽ và rõ ràng tới nỗi khi ta nhìn vào tâm thức của nó, hòn đá lập tức sống lại cảnh ấy, y như một ai trải qua kinh nghiệm lạ lùng sẽ kể lại nó khi có dịp. Hòn đá cũng ý thức đôi chút về khung cảnh trước mặt, khó mà nói nó thấy nhưng ấn tượng lưu lại trong đá làm ta có thể nói nó cám được, và biết những thay đổi xảy ra ở đó.
‘Hòn đá thứ tư có quá khứ đặc biệt hơn hết. Đó cũng là tảng đá có mái nhưng con người đã bị dùng để tế thần lúc xa xưa trong cái hang bên dưới, tới nay nó vẫn còn không khi ghê rợn bám quanh. Nhìn sâu vào tâm thức đá người ta dễ dàng thấy lại những cảnh kinh hãi mà nó đã từng chứng kiến, nhưng cái lạ lùng là không hình ảnh nào ghi đậm nét như với hòn đá thứ ba. Ta có thể nói nó không quan sát kỹ bằng ! Mặt khác mỗi phân tử của đá thấm đượm nỗi khủng khiếp làm rủn người không tả được, thật mơ hồ mà cũng thật sâu đậm, không xóa nhòa trong tâm thức và thành một phần của đá tới mức như là cái không thể thiếu trong sự sống của nó. Nhưng nó cũng có một niềm vui thích quái dị, một cái ác khó hiểu truyền kiếp, lạ lùng mà ngôn ngữ đương thời không có tên để gọi. Đá không có tâm thức rõ ràng về chuyện ấy, không có gì ngoại trừ cơn mơ xấu xa, đen tối, trôi chậm và không tên. Người ta tự hỏi nó sẽ phát triển thành tương lai bi thảm nào.’
(Trích từ The Personality of Rocks, C.WLeadbeater, Fritz Kunts)
Qua đoạn trích này, ta thấy sức sống của đá kỳ diệu biết bao lần hơn ta tưởng. Đối với nhiều bạn đọc phần này có thể lạ lùng và không thể tin được. Có lẽ một trong những lý do khiến ta trở nên già lão, cùn nhụt và mất liên lạc với thế giới của những sinh vật sống động là vì ta không thể thấy sự sống quanh ta, phủ nhận không tin những gì mà ta không thể lấy tay sờ chạm hay nhìn bằng mắt thường. Cái nhìn của ta vì vậy bị giới hạn, bởi kinh nghiệm trực tiếp quá hiếm hoi, và con người già sớm, đời sống hóa buồn tẻ đơn điệu. Nhưng khi chịu khó một chút, tin và cả thí nghiệm vài điều mới đầu xem ra lạ lùng hay có vẻ điên, ta sẽ bắt lại được nét vinh hiển của thiên nhiên, mẹ của mọi sinh vật, và nhờ đó trẻ trung lại, cái trẻ trung vốn là sự sống. Với tôi, đời sống vô hình mà tôi vừa tả - nhất là các bạn nhỏ, cây cối mà tôi sẽ nói về sau, tinh linh rừng và tinh linh vườn - mang nhiều ý nghĩa hơn tôi có thể nói. Nếu độc giả theo dõi những chương sau không e ngại mà cố gắng cảm thông, và tìm cách thấu hiểu với sự sống mà tôi biết, tôi tin rằng bạn sẽ tìm được hạnh phúc mới và sự hiểu biết mới về các vấn đề của sự sống.
Trái đất mà ta ở có đông đầy những sinh vật dễ thương, duyên dáng và vui tươi như đã tả. Vườn, sân, rừng núi, khắp nơi quanh chúng ta chứa đầy tinh linh, và ta sống trong thế giới mà mọi vật rung động với sức sống. Nếu ý thức trọn vẹn điều ấy, ta sẽ bắt được cái bí ẩn đúng thực của chuyện trường xuân.
CHƯƠNG VI
Tinh Linh Vườn
Trong các sinh vật sống trên mặt đất, một trong những nhóm quan trọng nhất có liên quan đến rừng và vườn, luôn cả hồn cây, là tinh linh. Có lẽ cách tốt nhất để trình bày các tính chất đặc biệt của những tinh linh này, là tả sinh vật của từng nhóm tự nhiên, theo rừng và theo vườn.
Có nhiều loại tinh linh vườn. Loại nhỏ nhất cao bằng cây nến, thường là hình dạng cỡ 25 - 30 cm với đầu chừng 5 cm, mặt người ở chỗ ánh lửa của nến, thân hình màu xanh trái táo sáng, hay màu vàng với da mặt sậm. Cánh tay và bàn tay cân đối, chân mờ hơn, ngắn và cũng thấy bàn chân. Tinh linh đặc biệt này hình như làm việc với cây hoa nhỏ trồng viền lối đi, như hoa mười giờ và cây nhỏ mọc thành cụm. Chúng không đáp ứng nhiều với các sinh vật khác, hay biến cố bên ngoài thế giới nhỏ bé của chúng; phản ứng của chúng còn rất sơ khai tuy biết thương yêu cây cỏ mình nuôi và ganh tị nhau. Chúng háo hức với tình cảm mới lạ vì đó là cách để chúng học hỏi. Một nhóm bốn hay năm tinh linh thường bay là là trong khu vườn nào xinh tươi hấp dẫn.
Kế đó trong đám hoa uất kim hương - tulip và cây tương tự có tinh linh cao chừng 30 cm, giống người nhiều hơn tinh linh nến, nhưng vẫn giống bóng hơn là người thật vì có đường nét viền là ánh sáng tím nhạt mà không có thân thể cứng chắc. Vài kẻ có khuôn mặt dài thanh tú như mặt nai. Ta không thể lẫn chúng với người, không phải chỉ vì thân xác nhỏ mà còn bởi vóc dáng ngộ nghĩnh và quá đỗi mảnh mai. Tứ chi giống người thật đấy nhưng bàn tay và bàn chân không hoàn toàn. Ngón tay và ngón chân có nhiều kiểu, đôi khi bàn tay giống chân mèo con hơn. Bao quanh người là chất trong suốt giống như lân tinh, có màu hồng và tím nhạt xinh đẹp.
Khu vườn mà tôi đang tả có những khóm hoa pensée - pansy, quanh chúng nhiều sinh vật xinh xắn thanh nhã bay lượn giống như bướm, hiện hữu không lâu. Chúng bé tí, chừng vài phân có gương mặt giống hoa pensée. Thân rất giống như thân chuồn chuồn hay của bướm, thuôn dài và hẹp hơn khuôn mặt nhiều. Cả thân và đầu chừng 10 cm và gương mặt chừng hơn 2 cm. Chạy dọc từ cổ xuống hết thân hình là hai mảnh giống như đôi cánh mỏng, không dùng để bay mà chỉ để tô điểm cho đẹp. Gương mặt và thân hình màu da người có pha chút tím nhạt và mầu hoa cà; đôi cánh cũng có màu tương tự nhưng sặc sỡ và sáng hơn. Trong chỉ vài phút ngắm hoa tôi thấy bốn cô nàng như vậy, lượn quanh những chậu hoa pensée để trên thành cửa sổ. Tức là trong thế giới vô hình cũng như hữu hình, sự sống tràn đầy và tinh linh dễ dàng gặp ở bất cứ nơi nào có hoa y như bướm.
Qua đến tinh linh vườn ta thường hay thấy, về nhiều phương diện đó là tinh linh điển hình, và là mẫu người ta nghĩ đến khi nói về tinh linh. Đó là sinh vật tôi đã tả ở chương ba. Mảnh vườn này có nhiều tinh linh lớn, cao chừng 45 - 60 cm, rất giống người về nhiều mặt. Chúng có mắt, mũi, miệng và cả tai, tóc như len thường là nâu sậm như vỏ cây. Khuôn mặt thì như các tinh linh khác, cân đối như mặt người vì mắt và mũi xa nhau, khiến chúng luôn luôn có vẻ hiếu kỳ. Mà thực vậy, các sinh vật này vô cùng tò mò. Ta cũng thấy lạ lùng khi mới nhìn và thấy chúng không có lông mi hay mí mắt. Mặt màu nâu vàng óng, còn thân thể lúc nghỉ và không có ‘diện' thì có màu xanh ngọc bích, làm ta nhớ đến những con cánh cam màu xanh lục chói sáng rỡ thấy vào mùa xuân. Tay chân giống hệt người dù chân hơi có hình tam giác. Trọn người cho nét hân hoan. Chúng chơi đùa trong cây tử đinh hương - lilac lúc tôi ngắm chúng. Bởi có óc thông minh cao nhất so với loại khác trong vườn, chúng giám thị việc làm của những tinh linh thấp hơn ở đó.
Cái hồ nhỏ trong vườn có một loài tinh linh mà tôi không có tên để gọi, nên tạm cho chúng là tinh linh ‘suối’. Hồ do vài con suối chảy vào, ở những chỗ nước tuôn trong đất ra có sinh vật kỳ lạ, dài ngoằng giống như con sứa; phần thấy rõ nhất là cái đầu mờ, hơi có màu xanh, nhạt dần vào thân hình có vẻ xanh, gần như không có cổ. Thân hình tan loãng thành những tua mỏng mảnh, mơ hồ, đi khá sâu vào đất. Tinh linh như lấy sức sống từ trong lòng đất dù cùng lúc rõ ràng là chúng có liên hệ với nước. Thấy ngay là nước suối có tính tươi mát sống động và là nguồn sống cho chúng. Sinh vật lạ lùng này thường lẩn quẩn ở chỗ nước từ đất trào ra, đầu chỉ lú lên khỏi nước, bập bềnh nhấp nhô chậm chạp.
Trong nhà kính nhỏ tôi thấy vài tinh linh như loài bướm đã nói, nhưng dài hơn chừng 3 - 5 cm và giống người nhiều hơn, còn thì y hệt về những mặt khác. Rõ ràng là sau một thời gian kinh nghiệm trong nhà kính, tinh linh giống bướm đã chuyên biệt hóa về việc thúc cây cho lớn. Sinh vật rất mảnh mai, thanh tú.
Còn có những tinh linh khác góp phần vào sức sống của vườn, đó là cây. Chẳng hạn ở giữa vườn có cây hồ đào lớn, xinh đẹp, mọc đơn độc một mình. Sinh khí của tất cả tế bào linh động trong cây họp lại thành sức sống của thực thể mà ta tạm gọi là tinh linh cây, hay hồn cây. Như vậy, đó là sinh vật mà cây là cơ thể của nó, hòa tan vào nó. Sinh vật là một phần căn bản của cây, không thể đi ra ngoài khỏi cây một khoảng cách nào như tinh linh bay lượn quanh bụi hoa. Không cây nào mà không có tinh linh cây, nhưng không phải lúc nào ta cũng có thể thấy nó, vì nó chỉ xuất hiện khi nào muốn vậy. Tuy nhiên tâm thức cây đôi lúc có thể phóng chiếu ra ngoài và khoác lấy hình thể. Hình này cũng giống hình người, nhưng trọn cái bóng kéo thật dài và thật mỏng. Vài tinh linh cây có cá tính mạnh mẽ còn đa số không có gì đáng nói cả. Cây hồ đào lớn tuổi này rất dễ thương và tươi tắn, khi nào tinh linh khoác lấy hình dạng thì nó lấy hình người da đỏ cao lớn, da nâu giống như vỏ cây, mũi cao, tóc mờ mờ, mắt là hai chấm tròn đen. Nó không đẹp lắm nhưng duyên dáng, hết sức vui vẻ yêu đời và thân thiện. Nó cho ta cảm tưởng đó là ông lão khôn ngoan, tươi tỉnh, và bản tính thật dí dỏm.
Vườn rộn rịp vào lúc bình minh, vì luôn luôn vào lúc này trong ngày ân lành được rải xuống đất, thực sự có năng lực khơi tỉnh và tinh linh bận rộn thu nhận rồi ban rải đi. Việc ấy cũng khởi sự hoạt động trong ngày của chúng. Chúng ngừng chơi lúc bình minh để làm việc trở lại. Tinh linh coi mặt trời như là quả cầu ánh sáng vĩ đại, ban phát sinh lực, là nguồn của mọi sự sống vì chúng lấy chất nuôi dưỡng chính yếu từ tia sáng mặt trời. Thấy như chúng thu hút ánh sáng đi xuyên qua người, gần như ‘ăn’. Ngoài việc thu hút năng lượng để duy trì cơ thể mình, chúng giúp hướng dẫn năng lực mặt trời vào việc tăng trưởng của cây.
Tinh linh có liên hệ thú vị với cây, coi chúng như bạn, không tiến hóa bằng chúng nhưng ít ra hơn về điểm có thân hình rắn chắc và vững chãi. Chúng thích cây, cho cây đáng trọng, có giá trị và tốt lành, mà đồng thời nghĩ mình cao hơn vì cây không thể di động như chúng.
Tinh linh tỏ ra lưu tâm đầy tình thân với thú vật; trong vườn này có le le, vịt và thiên nga trắng, dân cư thần tiên hay xuống hoặc đứng ở bở dốc trên cao, nhìn xuống đời sống của các con vật này một cách vui vẻ. Chúng gắn bó mật thiết với những loài này và thong dong đi lại giữa đám, nghĩ về chúng như ta nghĩ về chó nhà, chỉ có điều chúng thấy như đồng hàng với vật. Sinh vật luôn luôn tìm cách giúp mấy con vật này hết sức mình, và vịt ngỗng cũng đáp ứng lại, vì giống như hầu hết thú vật, chúng cũng thấy được tinh linh.
Con chó nhà khá to hay nằm ngoài vườn lơ mơ, phát ra cảm giác khoan khoái, mù mờ, liên quan tới việc nhặt được xương hay đào lỗ trong vườn. Nỗi sung sướng mơ hồ biểu lộ qua màu hồng nhạt, đôi khi có lẫn nét khích động cho màu đỏ, hay màu xanh ganh tị lúc chó ta ghen với mèo cùng nhà, hay lòng kính yêu màu xanh da trời dành cho chủ. Những trạng thái ấy làm tinh linh thích thú theo dõi, thường thú vật không để ý mấy tới chú nhỏ, nhưng tôi tin chắc là chó ta thấy được sinh vật, ít ra vài kẻ nếu không thấy hết. Chó ta coi tinh linh là việc rất thường. Có lúc tinh linh tránh nếu chó ồn ào, hay làm việc gì khác thường. Tuy vậy tôi nghĩ nó xem tinh linh như là vật rất mờ, xa xôi. Chúng cảm thông sâu đậm khi thú vật sung sướng hay đau khổ, nhất là nỗi vui sống vỉ đó là bản tính nổi bật của tinh linh. Chúng cũng thích thú khi vịt con mới nở lẫm chẫm bước ra. Những dịp như vậy tinh linh tỏ ra hào hứng hơn là trong đời sống thường ngày của thú vật. Nói cách khác, chúng đáp ứng với bất cứ những gì liên quan đến tiến trình sáng tạo trong thiên nhiên, việc mà tinh linh luôn luôn đóng vai trò tích cực. Vì lý do đó, đời sống của tinh linh vườn vào mùa xuân khác hẳn những mùa còn lại trong năm.
Tinh linh nhìn người với sự hiếu kỳ. Thí dụ chúng luôn luôn nhìn vào chủ vườn lúc họ cho vịt ăn, xem họ là sinh vật cao hơn mình. Nhưng về nhiều mặt khác, chúng chỉ làm lơ vì coi người là loài khác chúng. Mặc dù vậy sinh vật chú ý tới người và nhìn ngắm họ để ráng hiểu. Ở đây gia đình này tin có thế giới tinh linh nên nói chung, tinh linh đáp lại với tình cảm rất thân thiện tuy rất ít khi con người biết gì về sự hiện hữu của chúng. Trong vườn, chúng luôn luôn nấp sau bụi cây lén nhìn người rồi quay lại với công việc của mình, coi ta là chuyện thường. Chúng thích em bé đang chơi ở góc vườn. Bé con gần gũi chúng hơn là người lớn, vì trẻ hồn nhiên, năng động vả chúng thích tính khí đó, nên thương mến trẻ.
Như đã nói, bình minh là lúc tinh linh khởi sự làm việc. Chúng bắt đầu một ngày bằng cách tụ nhau vui vẻ trong một chốc, bàn về công việc trong ngày, đủ để tuôn rải nỗi vui của chúng cho thế giới chung quanh. Chúng tràn ngập vui sướng và mọi vật xem ra hết sức diễm lệ đối với chúng. Sương lấp lánh trên lá làm chúng vui, hân hoan với sự đáp ứng của cỏ, hoa khi ngày mới bắt đầu. Mỗi tinh linh bay lượn quanh cây mà nó có trách nhiệm, tìm xem có gì sai lạc và cách nào tốt nhất để giúp cây, tương tự như bác sĩ đi thăm các giường bệnh. Nhưng nó không nghiêm trang làm vậy; khi mọi việc tỏ ra tốt đẹp hay khi nó đặc biệt hài lòng với hoa, tinh linh xẹt tới xẹt lui quanh khóm hoa để biểu lộ sự thỏa mãn trong lòng. Nó tỏ cảm giác bằng hành động và la cà quanh hoa nào đó trong một lúc, làm như đó là em bé của nó, vuốt ve âu yếm, chú ý thật nhiều đến hoa.
Cảnh tượng thật đáng yêu. Dĩ nhiên chúng không dành cả ngày để chỉ làm vậy vì chúng muốn nghỉ tay vài lần trong ngày; khi nào muốn chúng ngưng việc và tụ lại với nhau, chia sẻ niềm vui sống. Chúng luôn luôn bay lượn, nhẩy nhót đó đây. Vào giữa trưa chúng ngừng một lúc bỏ đi ra, nhưng đến tối chúng ngưng hẳn việc. Khi đó chúng thường hợp nhau lại, luôn luôn tràn ngập niềm vui. Đôi khi chúng nằm nghỉ cạnh hoa mà chúng thích nhất, chỉ nghỉ mà không chợp mắt.
Những điều này tôi nghĩ là đủ để tả cảnh sống của tinh linh trong vườn ta có. Lẽ tự nhiên ở vùng nhiệt đới và nơi đặc biệt trồng cây cảnh thí nghiệm thì có nhiều loại cây hơn. Tôi hy vọng độc giả có thể thấy là khi nhìn từ bên trong khu vườn là nơi đáng yêu, đầy nét thần tiên vượt xa nét mỹ lệ của cây cối hay chim chóc mà ta quen thuộc. Thực vậy, cảnh tinh linh nến lượn lờ, vẻ thanh nhã chập chờn, màu sáng rỡ của tinh linh bướm cùng lòng vui vẻ rộn ràng hạnh phúc của tinh linh vườn biến khu vườn thành vùng đất thần tiên. Ta có thể nói rất sát sự thực rằng đời sống tinh linh là tột đỉnh, thành quả rực rỡ nhất của khu vườn, làm nó thành nơi dưỡng tinh thần tươi mát. Tinh linh sung sướng làm việc chung với người, hợp tác để tạo ra nơi đáng yêu cho tất cả vui hưởng, và nếu có thêm nhiều người biết rằng tinh linh hăng hái muốn giúp đỡ thế nào, thì vườn hẳn sẽ thành chốn thần tiên ngay trên đất, hơn là cái mà ta biết hiện giờ.
CHƯƠNG VII
Tinh Linh Cây
Rời bỏ mảnh vườn nhà thân thuộc với cây hoa xinh xắn để quay sang khu rừng, ta cần phải ghi lại rằng cây rất khác với ý niệm thông thường ta có về chúng. Cây cối là sinh vật sống động như con người, chỉ có điều tâm thức kém hơn và không phản ứng với cảm giác nhanh và nhậy bằng ta. Như đã nói, trong mỗi cây có tinh linh cây, là nguồn sinh lực cho nó. Không có cây nào dù nhỏ thế mấy đi nữa, lại không có tinh linh cây. Tinh linh tăng trưởng cùng với cây và biến mất khi cây chết. Khi muốn tinh linh có thể bước ra khỏi cây một khoảng ngắn và khoác lấy dạng tương tự như người. Còn khi ở trong cây hình rất lờ mờ, thực ra vô hình vì nó chỉ thành dạng rõ rệt lúc ra ngoài cây. Đa số tinh linh cây giống nhau ở điểm chúng đều cao lêu nghêu, sắc nâu, trông giống như hình người mà trẻ con vẽ: vuông vức, hơi dầy, mắt nhỏ, tóc ít sợi te tua, màu đen. Cố nhiên đây chỉ là hình tổng quát còn tùy theo loại cây như sồi, thông, bạch dương v.v. mà ta có những đường nét khác nhau, cũng như một số cây có bản tính mạnh hơn cây khác, như với người. Có cây mang cá tính độc đáo và có cây không có gì đặc biệt.
Khi ở bên trong cây, tinh linh làm nhiều việc hơn, lo săn sóc cho cây và kiểm soát năng lực của cây. Giống như việc bào trì cơ thể con người, cây hút hóa chất dinh dưỡng từ đất, nước và không khi, khi những chất này có nhiều thì tiến trình xẩy ra tốt đẹp và tinh linh cây hân hoan. Nỗi vui sướng ấy tác động lên các phản ứng hóa học trong cây. Chẳng hạn nó có thể thấy người mà nó thích và bước ra để nhìn kỹ, tỏ lòng yêu mến của mình. Nhiều bận tôi ngồi dưới gốc và tinh linh bước ra biểu lộ tình thân dĩ nhiên là mơ hồ, rồi nó lại có thể đi theo ta vài thước. Về đêm xem ra chúng có giờ rảnh hơn và có cơ hội họp bạn. Tinh linh nào cũng ra khỏi cây và nếu người mà nó quí mến ở trong nhà không xa lằm, các tinh linh cây có thể bước ra đi tìm họ. Tôi nghĩ một lý do khiến người ta cảm thấy sợ hãi trong rừng ban đêm, là vì các sinh vật này như bước ra khỏi cây và con người bị những sự hiện diện vô hình vây quanh. Nhiều người tưởng như có cả trăm cặp mắt đang dán chặt vào họ mà trên thực tế, quả đúng như vậy ! Tôi không nghĩ tinh linh làm hại ai trong rừng, chỉ có điều làn rung động và cảm giác của chúng khác với ta, làm ta thấy ớn lạnh dọc xương sống.
Dĩ nhiên là cây có thể không ưa một ai đó, và tôi đã thấy chuyện như vầy hồi còn bé tí. Ví không chứng kiến tận mắt việc xẩy ra, tôi không bảo đảm mọi chi tiết nhưng đã quan sát tinh linh cây liên hệ. Ở Java có cây mọc lâu năm, cành lá nó có thể gây nguy hại cho ngôi nhà nên vài người được chỉ định cắt bỏ cành. Mỗi lần ai leo lên cây hay lên mái nhà để làm việc ấy thì có chuyện xảy ra, hoặc bị té gẫy giò, hoặc trẹo tay. Vì những việc ấy, không ai muốn nhận cắt cành khiến cái cây được yên thân, và người ta cho đó là ý xấu của tinh linh cây nọ. Tôi có thể phụ họa niềm tin đó với chuyện là hồi còn nhỏ, tôi không muốn chơi đùa dưới gốc cây này, tuy bị tinh linh cây lôi cuốn với hình dạng mạnh mẽ, đầy uy lực. Tinh linh không thích người chút nào cả, vì nhớ lại thời chung quanh mình có nhiều cây thay vì nhà cửa như bây giờ, và thực sự trách móc con người đã làm cho tinh linh hóa cô độc và lẻ loi. Lúc bước ra ngoài để gặp người, sinh vật lấy hình khỉ to lớn mặt xám, cao chừng 5 m. Ở trong cây tinh linh lại cao hơn, như thể việc làm đậm đặc thân hình khi ra ngoài đã dồn vật chất của các thể thanh cho ra khối lượng nhỏ hơn.
Nói chung, cây thường có cảm tình với người, và chúng khác hẳn tinh linh vườn về mặt này. Cây có tính trung thành như chó, nhưng trang nghiêm hơn, không mừng cuống quít hay nhẩy lung tung như chó. Tính ấy có lẽ do nó mọc rễ một chỗ. Nhiều người kể cả tôi có dịp chứng kiến một thí dụ về cái đáp ứng nồng nhiệt này, và một số đông hơn nữa cảm được nó tuy không hiểu trọn vẹn.
Chúng tôi được mòi dự buổi trình diễn văn nghệ mừng ngày mãn khóa tại một trường ở California, và học sinh dựng một vở kịch về tinh linh. Một bé gái đóng vai tinh linh cây sồi xinh đẹp. Có đoạn em từ sau cây bước ra, giả bộ như từ chính trong cây đi ra, và nói chuyện với cây là nhà mình một cách âu yếm. Khi nói ‘Cây thương mến ơi’, em nói với tình cảm chân thành, ý tưởng lại tha thiết hơn vì em sắp phải rời trường. Bởi vở kịch nói về tinh linh, do trẻ con diễn, và vì cử tọa có thiện cảm và đồng điệu, khi em nói những lời ấy nó kêu gọi tinh linh thực của cây. Sinh vật đáp lại bằng cách bước ra với tình thương mến dào dạt, mạnh tới mức làm rung động khán giả, nhiều người chảy nước mắt mà không rõ tại sao. Bé gái cũng xúc cảm mạnh mẽ. Đây là thí dụ rõ ràng cho thấy tình cảm tinh linh dành cho người, khi ta hiểu chúng đúng đắn. Tinh linh nói trên hiện ra dáng to lớn mà hiền hòa, đầy thiện ý, khác xa với tinh linh cây ở Java.
Sự khác biệt của tinh linh cây không rõ rệt như với các giống chó. Ta đã nói về tinh linh cây hồ đào, nay ta có thể nói về cây sồi, thông và bạch dương. Trong cánh rừng nhỏ tôi có dịp ngắm cây sồi rất đẹp, hiền lành, có tinh linh cao chừng 5 m dáng dấp tây phương. Mặt trái soan, đều đặn, dễ coi và giống người. Tinh linh sậm màu, tóc đen. Tinh linh cây nào mà tôi đã thấy cũng có chút màu nâu, từ đỏ vàng của cây hồng mộc - redwood đến nâu xám của cây bạch dương. Hẳn đây là màu căn bản nhưng cũng có sự liên hệ giữa màu vỏ cây, và màu của tinh linh trong bất cứ cây nào, màu tinh linh có lẽ lấy từ sớ và vỏ cây.
Tinh linh cây thông sậm màu, mặt vuông vức có lắm màu xanh lục đậm trong thân. Sinh vật cho cảm tưởng thành thật và thẳng thắn, tuôn ra sự hòa điệu. Ông không cao lắm, chừng 3 m nhưng đầy vẻ rắn rỏi, uy lực, tóc đen - sợi thô như các trường hợp khác - và mắt cũng đen. Tinh linh bước ra khỏi cây chẫm rãi, nhìn quanh một cách sâu sắc. Bản tính vật không cương cường như cây sối, cái thực sự nói tính hùng tráng phái nam.
Dường như dạng mảnh mai của tất cả tinh linh cây có liên hệ tới thân cây và dòng sinh lực trong đó. Tinh linh cây con có dạng nhỏ bé và lớn dần khi cây từ từ tăng trưởng. Chúng có óc thông minh giới hạn, và chỉ ra khỏi thân cây khi tinh linh già hơn bảo đấy là việc phải làm. Nói tổng quát thì hình tinh linh cây hóa tròn hơn khi nó ở trong cây, thuận theo đường nét của cây. Khi bước ra ngoài nó dẹp lại nhiều, y như thân người có bề dày thua bề ngang.
Tôi cũng quan sát một cây phong non mọc gần đó ở ven bìa rừng. Nó trưng ra nhiều tính ‘da dỏ’ hơn những tinh linh khác. Diện mạo sặc sỡ, trong khi cây hồ đào cho cảm tưởng là một lão chiến sĩ da đỏ oai nghi, cây phong này đầy nét trẻ trung hớn hở. Nhìn chung sinh vật có màu nâu vàng, kèm màu đỏ tươi và vàng, thấy ngay là có liên hệ đến màu lá phong vào mùa thu. Trên đầu thay vì tóc anh chàng lại đeo một vòng lá màu thu, càng cho anh vẻ hội hè, và anh lấy làm hãnh diện về thời trang của mình lắm.
Chung quanh ngôi nhà tôi đang ngồi viết có một ít cây bao quanh, phần lớn là cây bạch dương. Rừng không xa lắm, nên dễ dàng so sánh sự tương phản giữa sự sống của những cây rải rác gần thành phố, hay trong thành phố với khung cảnh ở đây, khi cây quanh nhà là một phần của rừng. Cây hồ đào lẻ loi bị tách rời bạn bè đã còn rất ít liên lạc với cây khác, đúng ra không còn chút nào, nên nó quay sự chú ý sang người và vật, cho kết quả trí não cây tăng hơn cảm xúc. Nơi đây rừng cho cây cảm giác họ hàng thân thuộc với đồng loại, nên chúng lưu tâm vào đời sống của loài hơn là về người, tuy cũng tỏ ra rất dễ thương với ta. Gần đây một số cây bạch dương mọc giữa nhà và bìa rừng bị chặt làm củi, những cây còn lại tức giận và không mấy thân thiện với người nữa. Cây không thích bị chặt, cũng như tinh linh không muốn cây hoa bị nhổ, bởi sự sống của tinh linh cây gắn liền vào sự sống của cây.
Cánh rừng này khá gần nơi thị thành, rộng hơn công viên ở thành phố, ấp ủ cảm tưởng đợi mong. Đời sống cây không có gì bảo đảm vì con người can dự vào. Cánh rừng đặc biệt này cho ta cảm giác trẻ trung. Cây cối sống chung và có tình thân ái với nhau, nhưng cũng chú ý rõ ràng tới người chung quanh, chúng coi ta là sinh vật lạ lùng bên ngoài chúng. Về con người, ta hay nghĩ cây chỉ dùng làm củi đốt, cho bóng mát hay để trang trí, mà rất ít khi xem chúng như là cá nhân xinh đẹp hay sinh vật có sự sống. Cây cảm nhận điều này và điều ấy gợi nên một điều là cây có tinh thần cộng đồng, vì chúng ý thức rằng chúng là một loài, và con người là một loài khác.
Tôi cần phải nói rõ là cây có phản ứng rất chậm, mất một thời gian dài để thấu đáo kinh nghiệm mới. Hiểu biết của chúng giới hạn, nên khi ta nói cây nghĩ thế này, cảm thấy thế kia, nó có nghĩa chúng tỏ ra một cách mơ mơ màng màng so với người. Và đương nhiên có sự khác biệt giữa các cây. Dù vậy, khi một cánh rừng bị đốn chặt không thương tiếc, những cây còn lại có cảm xúc mạnh mẽ đủ loại: tổn thương, mất mát, cảm thấy bị cô lập tuy thiên nhiên có sự bình thản của triết gia, và biết có những điều không tránh được. Ta lý tưởng hóa cảnh rừng như là nơi quang đãng trống trải, còn với tinh linh và cây thì rừng lý tưởng là nơi có nhiều cây, bụi rậm và thú hoang. Cây và tinh linh thấy ràng buộc mật thiết vào nhau và có tinh linh thường lại nơi cỏ, hoa và bụi rậm mọc chen nhau, nhưng nếu mọi việc gọn ghẽ ngay hàng thẳng lối thì tinh linh lại không thấy hấp dẫn để tới.
Ý tưởng của người và của tinh linh có thể dung hòa nếu ta xen kẻ vùng quang đãng với vùng cây cối mọc tự nhiên. Nhiều người sẽ cho rằng nhìn như thế tình cảm quá, vì ta cần phá rừng cho con người sống. Cái đó đúng, nhưng đời sống văn minh tây phương chúng ta hoang phí lẫn tàn ác, nhu cầu của rừng và của đất không làm động lòng người trung bình trong xã hội. Tôi có dịp đi khắp vùng tây bắc Hoa Kỳ hiện giờ là vùng lâm sản lớn nhất thế giới, và tôi thấy dặm này rồi dặm kia nối tiếp nhau chỉ toàn là vùng hoang trơ trụi, chỉ còn lại những gốc cây đứng im. Nó cho ta ý niệm về nỗi kinh hoàng nhìn gốc cây bị thiêu, và không có bóng dáng sự sống nào. không thấy tinh linh trong khi nơi này trước kia là thế giới thần tiên nhộn nhịp, biết rằng những cây tùng, cây bách, cây thông hùng vĩ đã bị đốn ngã và có khi để nằm mục rữa.
Trên xa lộ Pacific gần Vancouver có một cánh rừng tuyệt mỹ, gồm những cây mọc từ thuở ban sơ của địa cầu. Khi thấy lần đầu, nó là một trong những khu rừng đẹp đẽ nhất mà tôi đã gặp trong đời, với vô số tinh linh và cảm giác hân hoan chan chứa. Nhưng lần sau tới thăm, tôi thấy kinh hoàng vì một nửa cây đã bị chặt, chỗ mà trước kia đầy vẻ diễm lệ nay xấu xí, hoang tàn. Cảm giác của những cây còn lại là run rẩy chờ việc khiếp đảm xẩy ra, tuyệt vọng đợi bị đốn ngã, bởi chớ quên là cây không thể bỏ chạy. Tôi nghe thuật là chính phủ và nhiều người đã đề nghị với công ty lâm sản một số tiền, hay rừng ở nơi khác để họ đừng chặt khu rừng đặc biệt này. Nó là một trong những vùng hiểm hoi có cây ban sơ còn sót trên trái đất. Hãy nghĩ tới hàng ngàn người đi trên xa lộ Pacific không còn được xuyên qua giữa khu rừng diễm lệ ấy nữa !
Khu rừng ngay trước nhà chúng tôi ở New Hampshire tượng trưng cho rừng mùa hè ở khắp nước Mỹ, trừ miền viễn tây và cực nam. Tinh linh cây đã nói sung sướng với khu rừng và hân hoan thích thú. Chúng thích đứng trong đất, cảm ánh sáng mặt trời tràn xuống người và gió thổi qua lá cây. Nó cho chúng cảm giác đang nhảy múa. Cây thích gió luôn cả bão, vì nó cho chúng cảm giác thích thú khi đứng yên thẳng người vững chãi, mà lại đu đưa trong bão. Chúng không thích bị đánh gục, nhưng nếu có thì là chuyện tự nhiên, như thể đó là trận chiến sẽ có một hay vài kẻ chết và đời sống kết thúc là vậy. Bao quanh chúng là đời sống phong phú của tinh linh, thú rừng chạy tới lui lo chuyện của chúng hay đùa giỡn và cây ghi nhận tất cả, chúng cảm thấy lòng che chở, âu yếm và hân hoan với hoa cỏ và thú rừng, vì tất cả nhờ chúng mà có.
Lẽ tự nhiên trong khu rừng như thế đời sống tinh linh rất đa dạng. Có những loài ta đã thấy ở vườn nhà, chỉ khác đôi chút vì sự sống trong rừng có khác với sự sống trong vườn. Có nhiều loại tinh linh hơn, chẳng hạn loại bé tí cao 30 cm, màu nâu vàng chói sáng có đường nét người mờ như tinh linh cây vậy. Mặt giống khỉ con hơn là giống người, ở trong chỗ nhiều rêu, chăm sóc cây dương xỉ và rêu. Rồi có nhiều chú gnome màu nâu và vàng chói đã tả, cũng như tinh linh xanh đậm tuyệt sắc cao chừng 45 cm bay lượn trong bụi cây rậm rạp. Lại còn tinh linh nước dưới suối, nhỏ người, mảnh mai như nước trong mầu xanh nhạt, rất giống người tuy chỉ cao 25 - 30 cm. Tinh linh nước ngọt thấy không mập hay tròn quay phúng phính như tinh linh biển.
Ao hồ có cùng loại tinh linh nhưng to hơn, từ 45 - 60 cm. Nhưng tinh linh nước ngọt không nhiều bằng tinh linh biển, nơi có vẻ là nguồn gốc phát sinh ra chúng. Rải rác trong rừng có những tinh linh tiến gần đến mức thiên thần, lớn cỡ bằng người và hình dạng như người với màu vàng và xanh lá cây tuyệt hảo. Chúng giúp điều khiển sự sống trong rừng. Trên hết tất cả là một thiên thần trông nom toàn diện: tinh linh, cây cỏ, đồi núi, suối, những cái góp phần nên sự sống của ngải và là trách nhiệm của thiên thần. Ngài có cá tính mạnh mẽ và thung lũng là một phần của cơ thể ngài, y như thân cây là cơ thể của tinh linh cây, chỉ khác là trong trường hợp này thiên thần có trí tuệ và cảm xúc ngang với người, và là một đơn vị ngang với ta, hay hơn nữa. Khi hiện ra thiên thần có dạng người rất thanh tú, mặt nhẵn nhụi trẻ trung, tóc đen sợi mảnh, gương mặt sắc nét cương cường, bao quanh cơ thể là màu xanh trái táo xinh đẹp. Sự hiện diện của ngài thấm nhuần trọn sức sống của thung lũng và khu rừng.
Tôi sẽ chấm dứt chương này bằng cách tả về rừng hồng mộc redwood ở bắc California, không phải công viên quen thuộc ở miền nam và giữa tiểu bang này, mà là rừng nguyên thủy ở phía bắc tiểu bang. Đây là rừng hồng mộc cổ xưa duy nhất với nhiều cây vĩ đại. Chúng làm ta cảm kích sâu xa, vì ta cảm được là chúng hết sức cao tuổi, đã hiện diện qua bao thời đại và biết được bí mật của sự sống. Mỗi cây có cá tính riêng biệt. Một tinh linh cây đặc biệt trông như người da đỏ cao nghệu với màu đỏ và vàng, như là đồng đúc. Ông cao hơn 10 m, đứng thật hiên ngang. Mắt là hai chấm nhỏ đen, tóc sợi thô rối bù cho thấy một uy lực kinh khủng cùng tinh thần trầm tĩnh, lặng lẽ của những người đã sống quá lâu, chứng kiến bao cuộc bể dâu thăng trầm.
Nguyên khu rừng bao la mọc đấy những cây như vậy, và tinh linh của rừng có nét lạ lùng, y hệt như tinh linh cây. Tinh linh trông cũng giống người da đỏ, mặt màu nâu hạt dẻ, mắt nhỏ đen, thân hình cũng cùng màu đỏ và vàng. Chúng cũng cao so với tinh linh thường, từ 90 - 120 cm. Cả rừng tràn ngập cảm giác hết sức cổ xưa vạn đại. Chỉ có hai loại tinh linh nhưng chúng rất đông. Tinh linh cây và có thể gồm luôn cả tinh linh rừng, cùng có số tuổi mà ta khó tin. Một số cây mọc từ một đến ba ngàn năm trước, sức sống tụ trên đỉnh cây nhiền hơn với cây thông thường. Chúng tỏ ra dửng dưng, chẳng những vì thuộc về thời quá xưa mà còn vì chúng quá lớn. Cây đã thấy bao người đi dưới gốc mình, thấy bao sinh vật sinh ra và chết đi, thế nên với chúng mọi vật hiện hữu chỉ là phù du thoảng qua. Tiếp xúc với cây thật khó, vì tư tưởng chúng hướng vào thời trước và những biến cố xa xưa, và cần thời gian để làm chúng lưu tâm đến chuyện mới.
Tinh linh rừng thì lại vui vẻ nói chuyện với tôi, đặc biệt chúng muốn biết về xe hơi, vì chúng hiếu kỳ muốn hiểu về máy xe và cách dùng. Chúng nghĩ ta ngồi chùm nhum trong cái hộp vuông để di chuyển đó đây là chuyện thật ngộ nghĩnh, vì đối với chúng di chuyển chỉ có nghĩa là bay. (Trong một trường hợp khác, tinh linh cũng hỏi một người về xe hơi; tinh linh thắc mắc khi hai xe đụng nhau, muốn biết đó là trò chơi gì của người !) Chúng biết rõ là con người đi bằng hai chân và thấy vậy chậm quá, còn xe hơi thì chúng rất lạ lùng. Tinh linh rừng và cây có hơi giận việc mở đường xuyên qua rừng, dù ở chỗ đang nói không có đường và cây không bị chặt. Cùng lúc, chúng cũng lưu tâm nhiều đến tiến bộ mới mẻ này - đối với chúng. Phải chi ta biết được cảnh sống ngày xưa của rừng ! Tinh linh và thú vật đã chung sống, giúp đỡ nhau tự nhiên hàng trăm năm về trước, và cây với tàng che mọi vật đã có mối tương giao với nhau lạ lùng.
Tinh linh cây thường ra khỏi ngọn để nhìn ngắm thế giới chung quanh, và nói cho nhau nghe chúng đã thấy những gì. Chúng kể cho nhau nghe về người đã gặp, nhưng ta có cảm tưởng các giống dân ngày trước không xa lạ với cây như ta bây giờ. Vào thời xa lắc xa lơ đó, cây và người hiểu nhau và chào nhau mỗi lần họ đi qua. Một tinh linh cây cho tôi thấy hình ảnh trong quá khứ, làm tôi rất đỗi lạ lùng. Cây thích sự liên hệ với người khi xưa và tỏ vẻ e ngại về tương lai, nhưng chúng đã học kinh nghiệm từ cả ngàn năm rằng sống và chết rồi cũng qua, nên chúng chờ đợi kết cục đời mình một cách trầm tĩnh.
Nếu mỗi người trong chúng ta vào rừng và thấy, hiểu các tinh linh này, hẳn ta sẽ thấu đáo hơn về năng lực tinh thần của sự sống, cái là tinh hoa của tôn giáo. Sinh vật thật lạ lùng, chói lọi, cao quí và xa vắng dường nào. Nếu tôi có thể ghi lại được ý chúng nói và nghĩ về quá khứ thì hay biết mấy, nhưng giãi bầy tính chất của sự sống trong rừng mà cây kinh nghiệm thật khó khăn. Kinh nghiệm học từ tế bào trong cây cho chúng biết sinh tồn cực nhọc thế nào. Chúng thấy sự sống quanh mình và biết rất rõ về cái chết, vì cây mọc quanh chúng thường bị sét đánh gục. Nhưng cũng giống như tinh linh, cây học được từ kinh nghiệm này là sự sống không hề chết và không hề bị phí phạm. Cây không thể di chuyển tới lui nên ta cho rằng nó có ít kinh nghiệm sống hơn người, nhưng ta đã lầm. Ta không học bằng cách chạy đó đây, mà bằng cách đem vào người kinh nghiệm từ ngoại giới, nhờ đó cảm được nhịp đập của sức sống bên trong. Con người thường tìm cách trốn chạy kinh nghiệm gì gây ra đau khổ, trời mưa thì ta tìm chỗ trú, sự chết đến ta không nhìn. Cây thì để gió mưa vùi dập và tìm cách chịu cho qua. Tôi thấy cây là sinh vật thực tế nhất, và những cây khổng lồ cổ đại này là chúa tể các cây.
CHƯƠNG VIII
Tinh Linh Núi
Vởi đỉnh núi hoa cương vút thẳng lên trời, tuyết phủ trắng, dãy Rocky Mountains trông thật hùng vĩ. Cảnh tượng ấy cho người mới tới lần đầu như tôi, leo từ sườn phía đông, một kinh nghiệm không dễ gì quên được. Khi từ từ leo lên độ cao hằng trăm thước trên mặt biển, tôi có cảm tưởng mình đang trên nóc hoàn cầu, nhìn xuống đỉnh cây xa phía dưới, nhưng đỉnh núi tuyết của dãy Rockies lại còn tít mãi trên kia. Cảm giác đầu tiên có khi nhìn cảnh tuyệt mỹ này là tôi đang đứng trước những vì vua quyền uy tột bực, cai trị một thế giới lộng lẫy.
Có những đại thiên thần đầy quyền năng tại dãy Rockies này cho cảm giác hùng mạnh: trong sáng, thanh sạch, lâng lâng, vững vàng. Các ngài cao lớn, uy nghi, ngụ trên các đỉnh núi chính của dãy. Thiên thần họp thành nhóm và trông giống nhau. Các vị đã ở đây từ cả ngàn năm nhưng cho ra cảm giác về sức sống trẻ trung, lòng nhiệt thành và sự xác quyết lạ lùng rằng mỹ lệ sau cùng sẽ toàn thắng. Thiên thần có uy lực mà trầm tĩnh, đằm thắm vui tươi. Màu các ngài gợi ý tuyết có ánh hồng. Vẻ đẹp của thiên thần mang nét Hy Lạp. Tinh linh quanh các ngài là một ngoại lệ thú vị, vì thiên thần trên đỉnh coi sóc tinh linh không khí, tuyết và trọn những loài khác ngoại trừ tinh linh lửa; tôi tin rằng các ngài còn lo cho những loài tinh linh hút sâu trong đất.
Vùng tuyết phủ linh động với cơ man nào là sinh vật bé tí, loài của chúng theo lẽ có sự sống ngắn, nhưng vì tuyết ở đây không bao giờ tan nên chúng có hình dạng như tinh linh. Sinh vật cao chừng 15 - 30 cm, người có vẻ nhám của tuyết thay vì như có lông, mặt là những hình tam giác lồng vào nhau nên gương mặt thật sự với chấm đen cho mắt và miệng có hình lục giác, hai chóp của ngôi sao nhô ra gợi ý đôi tai. Trọn thân hình giống như kén tuyết, vừa có nước vừa có cả không khí. Trí khôn còn thấp nhưng có nét sáng sủa, tinh sạch, và ở mức độ nhỏ bé của chúng, các tính ấy phù hợp với nét tinh tuyền rực rỡ của thiên thần.
Đôi lúc mây tụ lại chung quanh các đại thiên thần trên đỉnh. Những sinh vật trong mây tới nghỉ trên đỉnh núi, tắm mình trong bầu không khí của thiên thần. Các ngài giống như hải đăng, tỏa uy lực và minh triết cho muôn loài vạn vật. Tinh linh mây cũng đến núi thường, đa số thuộc về tinh linh không khí.
Đá trên núi thuộc loại kết tinh có chứa kim loại, liên kết với những kim loại này là một loại gnome nhỏ, đầy màu sắc lạ lùng: vàng chói, đỏ gần như đen và nhiều màu khác nữa, mặt có nhiều góc cạnh. Chúng cho ta cảm tưởng rất già, mắt như mắt chim, cứng rắn, sáng như kim loại, bí ẩn và tinh anh. Tinh linh không để ý gì đến con người, vì thực ra chưa bao giờ chúng thấy ta; chúng sống yên ổn trong lòng núi và thấy được thiên thần che chở khi làm công việc của mình.
Ở ven núi thấp dưới vùng tuyết đóng ta gặp những tinh linh khá giống loại thường: tinh linh bướm màu sắc rộn rã, tinh linh mảnh mai với gương mặt xinh xắn màu êm dịu lướt qua lại trên sườn núi. Chúng là dân cư địa phương, theo nghĩa chúng có tính trong suốt, tươi lành vốn là bản chất của mọi vật sống trên đỉnh cao. Đương nhiên là khi xuống thấp hơn, chỗ con người vỡ đất trồng trọt ta thấy loại tinh linh thuộc về những nơi như thế. Nhưng rõ ràng là đặc tính của thiên thần chế ngự sinh vật ở vùng cao hơn, và giữa bọn có sự hòa điệu vui tươi.
Những đỉnh ở giữa của dãy Rockies là trung tâm đặc biệt của năng lực tinh thần mà đại thiên thần canh giữ, và không ngừng tuôn rải ân lành ra chung quanh. Dường như khối lượng kim khí lớn lao trong đá cho thiên thần một nguồn vô tận, một khả năng lâu dài ta tạm gọi là từ lực tinh thần. Nhóm đại thiên thần có đời sống khá lạ lùng, các ngài chia sẻ kinh nghiệm và kế hoạch tương lai. Các ngài thăm viếng từng vị riêng rẽ và theo định kỳ họp mặt cả nhóm. Ngoài kế hoạch lớn lao, thiên thần lại có chương trình hằng ngày bắt đầu lúc mặt trời mọc, khi các ngài hướng về phương đông thu hút vào mình những tia sáng mặt trời, rồi tuôn rải cho khắp vùng trong núi năng lực của một ngày mới. Hoạt động gia tăng cho đến trưa, ngưng nghỉ một chốc rồi giảm từ từ cho đến khi mặt trời lặn và thiên thần có trạng thái lặng lẽ, êm dịu. Tối đến, nhiệm vụ của các ngài đối với tinh linh và núi non giảm bớt, nên thiên thần có dịp thăm viếng và hỏi han nhau. Các ngài ý thức phần việc của mình dưới sự hướng dẫn của Thiên thần Châu Mỹ trong sự tạo hình của lục địa này, theo đó các ngài thủ vai trò quan trọng và đôi khi cố ý giúp đỡ cả từng cá nhân.
Dãy núi Blue Mountains ở Úc khá đặc biệt. Xứ sở này có rất lâu đời, và sự sống vô hình của nó cũng đặc thù như thú vật, thảo mộc và đất đá ở đây. Tôi thấy cần phải nói một điều là cái khó khăn tôi gặp khi viết cuốn sách này, nằm ở điểm tôi muốn viết về tinh linh, mà không phải về thiên thần, nhưng không thể nào tách rời hai bên vì sự sống cả hai đan kết chặt chẽ vào nhau. Nhưng tôi sẽ cố nhấn mạnh vào mặt tinh linh.
Mỗi đỉnh có một thiên thần ngụ. Chân núi phía nào cũng thấy có đời sống tinh linh quen thuộc nhất trong vùng. Trong trường hợp của dãy Blue Mountains không có mấy loài khác nhau vì trên thực tế, cả châu Úc mọc một loại cây đặc biệt là cây khuynh diệp eucalyptus, và tinh linh liên hệ với nó thì giống hệt nhau, nên chuyện có thể hóa buồn tẻ đơn điệu nếu không nhờ chính tinh linh là sinh vật rất thú vị. Loại thông thường quanh chân núi có mặt màu nâu nhạt, vuông vức, đầy đặn, thân thể màu xanh, cao từ 60 - 90 cm người thon như tinh linh cùng loại ở khắp nơi. Chúng cho cảm giác linh hoạt, mà đồng thời cả sự nhẫn nại, vì chúng đã đối đầu với bao nhiêu là thử thách trong cuộc sống nếu so với tinh linh chỗ khác, và đã học tính kiên trì hơn. Óc thông minh chưa phát triển, còn lừ đừ chậm chạp nhưng lại quyết tâm khi đã nhất định làm việc gì.
Tinh linh xanh rất hợp với khung cảnh lạ lùng nơi nó sống. Ta thấy kính sợ trước tuổi đời quá cao của chúng, và núi có không khí lạ lùng, xa vắng làm ta nghĩ đến sự lẻ loi. Núi giống như người đứng gác thành trì xưa cũ của nền văn minh xa lạ, chôn chân mọc rễ vào lòng đất, vững vàng mạnh mẽ với những chuyện kỳ dị của thời ấy. Nhưng cái cho ta ấn tượng mạnh nhất là không có cảm giác được đón chào thân thiện, mà là sự cảnh giác dõi chừng và nhẫn nại. Núi hoàn toàn chưa có tính người, vẫn còn trong tình trạng sơ khai, và ta cảm kích nghĩ rằng mình được tiếp xúc gần gũi với sự sống, và năng lực như trong thời hoang dã mà Haeckel gọi là thời Lemuria.
Trên cao một chút của sườn núi có tinh linh màu xanh ngọc bích, hơi nhỏ hơn tinh linh xanh dương ta vừa nói, mặt nhọn hơn nhưng thông minh và vui sống hơn. Màu xanh ngọc bích sáng rỡ tương phản mạnh mẽ với màu xám xanh hơi tối của cây, màu đỏ đậm của đất và màu xám của đá. Chúng cử động nhanh nhẹn làm ta nhớ đến những con kangaroo đang nhảy lẹ làng chung quanh. Tinh linh rất chú ý đến thú vật và tìm cách giúp chúng với hết sức mình. Chúng nhìn ta lom lom khi ta leo núi. Ở đây cũng như trên cao kia có nhiều sinh vật đã tả giống gnome, tương tự như tinh linh gặp ở Grand Canyon tại Arizona, và cố nhiên chung quanh có năng lực hiền từ của cây khuynh diệp.
Một tinh linh cây trườn mình ra khỏi cây và nhìn tôi chằm chằm. Ông cao chừng 2,10 m, mặt rất dài hình trái soan cỡ 30 cm hay hơn mà chỉ rộng chừng 15 cm, rám nắng. Thân cũng thuôn dài hình bầu dục màu xám bạc rất dễ yêu. Nét mặt không rõ rệt, cho ta cảm tưởng tinh linh tự hào với sức của mình. Dầu vậy tôi rất thích tinh linh già lão của cây khuynh diệp, và kết bạn được với nhiều kẻ trong bọn. Họ rất tốt lành tuy không kém phần tinh nghịch và nhiều khi tôi vòng tay ôm, vỗ về họ đầy tình thương mến, tinh linh cảm nhận được chuyện này và luôn luôn đáp ứng lại. Tôi cũng thường hay hỏi ý kiến họ về nhiều việc, và bởi họ quá già, cái nhìn của họ thấm nhuần triết lý về sự sống đã trải qua lắm niên kỷ và chịu đựng bao khó khăn. Cuộc sống của cây không dễ dàng và họ đã phát triển sức mạnh khi tranh đấu để sống còn.
Cao hơn thế nữa có những tinh linh đáng chú ý. Chúng màu đỏ như đất, nét mặt lạ nhưng xinh tươi và như có sương bạc che phủ. Đi qua khỏi bầy sinh vật duyên dáng này, ta gặp chính vị thiên thần núi. Ngài to lớn và nếu so với những thiên thần khác thì hình dáng hơi gầy, mắt xanh sâu thẳm, lông mày đậm nét, gò má cao, mũi to, miệng đầy đặn, trọn gương mặt là nét uy quyền hòa hợp với mỹ lệ. Da sạm nắng như người bao phủ một màu xanh đậm. Tôi đứng kính cẩn trước mặt ngài nhưng cũng đầy lòng tò mò, ngài đáp lại với cung cách rất dễ thương làm tôi bạo dạn hơn. Thiên thần rất gần gũi và thân thiết với tinh linh, thú vật và cây cỏ trong vùng trách nhiệm của ngài. Ngài cũng cho tôi một cảm giác về quyền lực trong thế giới còn sơ khai của ngài. Ngài nhìn cảnh vật chung quanh với thái độ đã hiện diện nơi đây quá lâu, đã thấy quá nhiều nên ngài sống với chuyện đã qua. Nó liên hệ đến giống người lạ lùng từng ngụ nơi đây chục ngàn năm về trước, biến chuyển thiên nhiên đã vùi chôn họ, hằng bao nhiêu bộ lạc, thú vật, tinh linh dị hình đã tới rồi đi trong đời ngài. Vẫn còn vài tinh linh quái dạng ấy trên núi này, nhưng bầy đông đúc mà ngài chứng kiến thì đã giảm đi. Chúng nửa người nửa thú, màu nâu và đỏ lạ lùng.
Những đỉnh núi không cao lắm mà nổi bật trong vùng và đứng chơ vơ, đôi khi cũng có thiên thần chủ trì. Tôi đã thấy một vị như vậy ở núi Constitution trên đảo San Juan tiểu bang Washington. Núi là điểm cao nhất trên đảo, cái gần như là trung tâm của bọn, từ trên đỉnh nhìn ra được cảnh ngoạn mục của hơn một trăm đảo trong vùng. Eo biển còn nhiều ngọn núi bao quanh đỉnh phủ tuyết cả trong mùa hè, nhưng núi Constitution đứng lẻ loi trong đám. Thiên thần núi có quyền uy đặc biệt, rất đáng kể khi so với kích thước của núi. Ngài là vị thủ hộ của trọn vùng đảo và chọn điểm này làm tổng hành dinh cho mình, thấm đượm nó với bầu không khí đặc biệt của ngài. Thiên thần vừa oai nghi vừa trang nhã, tính khí từ tốn, chững chạc nhưng cái nổi bật là minh triết và hết sức khoan hòa.
Ngài chú ý rất nhiều đến con người và thật tình quý chuộng họ. Thiên thần muốn duy trì bầu không khí đặc biệt trên khắp đảo và tinh linh chịu ảnh hưởng ấy. Nó khiến chúng thân thiện và sẵn lòng giúp đỡ người vì đó là ý nguyện của thiên thần. Ngài cũng nuôi dưỡng cho mạnh cảm tưởng là sẽ không có hàng rào ngăn cách các loài. May thay con người chìu theo ý thiên thần, một Công viên Quốc gia đã được thành lập gồm luôn cả ngọn núi của ngài và một vùng rộng lớn quanh nó, đây là chỗ sinh sống an toàn cho thú vật trong đó có nhiều nai, những thú hoang xinh đẹp và cây sừng sững cao lớn. Tất cả những điều này là cơ hội rất tốt để tinh linh thực hiện ý của thiên thần. Tôi cũng nghĩ là ngài đã tìm cách gieo ý tưởng của mình vào đầu óc người sống trong công viên hay quanh núi, vì tình thân thiện chân thật với người của thiên thần làm ngài hiểu và hướng dẫn họ, ngay cả đời sống con người trên đảo cũng lặng lẽ và cảm thông được với ngài, vì là nơi tương đối hẻo lánh.
Tinh linh dưới chân núi có nhiều loại, lên tới đỉnh cũng gồm những loại có bản chất khác nhau. Một loại thông thường nhất là tinh linh rừng màu tím dịu dàng, khuôn mặt rất mờ, hiện diện từ bãi biển lên tới gần trên đỉnh. Sinh vật hết sức yêu kiều, cử chỉ duyên dáng; trên cao loại thường thấy có màu xanh và nhiều loại khác nữa, nhưng cái đáng chú ý nhất là chúng hết sức thân thiện. Chúng rụt rè nhìn người leo núi tỏ vẻ thích thú. Có lẽ cái chúng thích nhất là huơu nai, cảm thấy có tình liên đới gần gũi. Cao tít trên núi có nhiều hồ, đây là chỗ ở của những loài tinh linh nước xinh đẹp, màu xanh dương có thoảng xanh ngọc bích, thân hình giống người thật cân đối, mảnh mai, phủ quanh với chất mờ mờ. Biển quanh chân núi thẳng đứng thêm sự hiện diện của tinh linh biển vào chuyện, và tăng vẻ phong phú cho thế giới thần tiên diễm ảo của vị thiên thần.
Điều đáng kể về nơi này là nó không những chỉ là chỗ an toàn cho thú vật mà thôi, mà cũng là nơi nghỉ ngơi đặc biệt cho tinh linh và cả thiên thần từ đảo khác, và thiên thần trong đất liền nữa. Sự kết hợp đáng yêu của biển, núi, hồ và rừng được bảo vệ tạo nên một chỗ rất ngoạn mục, và cá tính mạnh mẽ của vị thiên thần thu hút những vị khác tới đây để hỏi ý kiến và đề nghị thay đổi. Ta có thể nói thiên thần nơi đây là vị có tiếng tăm trong vùng. Ngài luôn luôn cố gắng đặc biệt để giúp đỡ ai tới núi, theo đường phát triển của riêng họ, và tôi nghĩ nhiều người cảm được ảnh hưởng tốt lành của ngài ngay cả khi họ không biết sự hiện hữu của thiên thần. Cảnh trời biển bao la lồng lộng, đất liền mờ mịt và đỉnh núi tuyết phủ làm rộn rã tâm hồn du khách nhậy cảm, khiến họ có cơ hội tốt đẹp hơn lúc thường để đáp ứng lại ảnh hưởng của ngài, sinh vật lâu đời nhất, khôn ngoan nhất và đầy sức khơi động nơi đây.
Ở Java, nhân vật giúp tôi nhiều nhất lúc tuổi thơ về một số điều mà tôi đang viết, là thiên thần một ngọn núi lớn. Ngài luôn luôn khích lệ một người tới chuyện cao cả, tính vững vàng, chính ngài đã khuyến khích tôi tìm hiểu thêm nữa về đời sống tinh linh. Thiên thần không những là người bạn đầu tiên tôi có trong giới thần tiên, mà qua bao năm tháng ngài còn là biểu tượng cho thái độ của giới này đối với vạn vật. Cái nhìn của ngài không có chút xấu xa, tiểu tâm. Thiên thần nào cũng có tính ấy, nhưng ngài lộ nét cao cả này một cách đặc biệt, và tiếp xúc hằng ngày với linh hồn tôi như thể gây ấn tượng sâu đậm trong lòng đứa trẻ. Gần như mỗi buổi chiều ngọn núi của ngài nổi bật trong ánh trời tà, với những giải mây đằng sau và quanh đỉnh. Đã nhiều năm tôi chiêm ngưỡng ngọn núi, rồi đột nhiên tôi thấy mình đứng cạnh ngài trên đỉnh núi. Ngài đã thành hình để đáp lại lòng ngưỡng mộ, thắc mắc trẻ thơ bao năm qua.
Thiên thần cao, màu chàm, với tinh linh màu chàm và vàng óng tụ quanh. Thiên thần tỏ ra tánh can cường và kiên tâm đi tới đích, kèm lòng thương yêu chân thật, khoan hòa. Nói cho cùng, người có minh triết và uy nghiêm hàng bao thế kỷ chăm sóc phần tâm linh một vùng, hẳn biết cặn kẽ sự sống vùng ấy, cảm nhận bén nhậy mọi tư tưởng và tình cảm mỗi ai trong tầm của ngài. Thời gian cho những linh hồn như vậy sự cảm thông, và vị thiên thần này mở rộng tầm ảnh hưởng của ngài bao trùm tôi, tuôn sức sống lên tôi vì tôi đã hướng về ngài.
Núi non như vậy thực sự có thể nâng cao con người và tâm thức của ta đáng kể, ảnh hưởng đời sống của người, vì về một số phương diện nó là biểu tượng cho nét cao cả của linh hồn. Ai cũng có thể cảm thông điều này về núi nếu họ thực tình coi nó như bạn.
CHƯƠNG IX
Tinh Linh Nước
Biển, ngoài cảm nghĩ thông thường của ta như là những lượn sóng xanh nhấp nhô trong gió và cá lội tung tăng dưới sâu, còn có hàng ngàn tinh linh biển thuộc nhiều loại. Chúng là sinh vật của biển như cá vậy, thuộc về nước và chỉ hiện hữu thường trực trong nước mà thôi. Có rất nhiều loài, khác nhau về hình dạng và màu sắc trong những lớp nước khác nhau, nhưng nói chung tôi thấy có ba loài chính.
Đầu tiên là những tinh linh sống trên mặt biển trong eo, vịnh gần đất liền. Tôi đặt tên cho chúng là bé nước - water babies, vì trông chúng giống em bé tròn trịa bụ bẫm, và rất mực hồn nhiên vui vẻ. Ta có thể tưởng tượng ra hình ảnh khá giống chúng là khuôn mặt tròn vành vạnh lớn bằng đĩa lót tách trà, không có cổ, thân tròn quay khoảng 45 cm đường kính, gần như không có chân, hai bàn tay không rõ, giống như với ngón tay múa máy khá dễ dàng; trọn người mềm mại sáng xanh, mắt to hớn hở, mặt trăng trắng, gần như không có tóc mà có cái như tóc tơ, tai mờ. Tinh linh có thay đổi về màu sắc và kích thước ở vùng biển khác, nhưng hình dáng trên thông thường nhất.
Chúng lăn tròn, nhào lộn té vào nhau chùm nhum một đống giữa sóng nước, vui vẻ nô đùa. Tinh linh luôn luôn họp thành nhóm ba, bốn kẻ hay đông hơn, có khi nguyên bầy nhẩy cỡn, trôi nổi dọc theo bờ. Đây là tinh linh yêu đời nhất mà tôi được gặp và có nhiều cảm tình với người, là loài sinh vật chúng cảm thấy tội nghiệp vì khẳng khiu và nghiêm nghị, khô khan. Đặc tính khác của chúng là tinh linh có thể truyền sang ta sinh lực, cái mà chúng có dư thừa, bổ khuyết phần dự trữ của ta khi nó hao hụt. Nếu khi quá mệt, ta ra biển và cố tình hấp dẫn vài tinh linh để nhờ chúng san sẻ bớt phần năng lực của chúng, tôi cho là trong vài phút ta sẽ thành người khác hẳn. Ở Sydney khi mệt, tôi thường ra cầu tàu ở hải cảng và trong vài phút sự linh hoạt trở lại, vì các bé nước ở đầy bờ biển và vịnh nước mặn, tuy có lẽ bờ ở California và Florida chúng sôi động hơn. Ta sẽ nói thêm về chúng sau điểm này.
Khi ta rời bờ đi ra ngoài, các em bé nước không còn mà thay vào đó là tinh linh giữa biển với hình dạng và tính chất khác hẳn. Chúng cao tứ 1,5 - 2 m, giống người hơn, thật ốm nên giống như bộ xương sống động nhưng không xấu xí; trái lại tinh linh có nét đẹp hung bạo, gầy gò mà lôi cuốn, cử chỉ như chó Nga thuần giống, và cả bề ngoài cũng vậy, bởi gương mặt tuy giống người nhưng dài, mũi dài và môi xẻ. Mắt xanh to, sâu, tóc như rong biến màu xanh đen. Da mặt mầu nâu nhạt hay rám nắng một chút còn thân người được phủ bằng một chất như lụa mỏng tha thướt, màu chàm, phất phơ lượn bay quanh chúng. Cánh tay không có bàn tay và chân mờ mờ không rõ. Khó mà tả chính xác vẻ mơ hồ như sương bồng bềnh và tôi đã không nói hết được vì chính ra, tinh linh có vẻ đẹp riêng của chúng.
Tinh linh cũng biểu lộ niềm vui sướng, nhưng mang đặc tính cuồng nộ, man dại, hung hăng của bão giữa biển ngay cả khi biển lặng - tuy chúng ưa thích bão biển -, chúng lắc lư người tới lui theo nhịp của biển. Sinh vật dửng dưng với người. Chúng không ở mãi trên mặt biển mà thỉnh thoảng từ độ sâu khoàng 20 m hay hơn trồi lên để có được kinh nghiệm trên mặt biển.
Loài chính yếu thứ ba ở thật sâu dưới đáy biển, cũng to lớn hơn nữa nhưng không đẹp mắt, giống thú vật và tựa như con đười ươi, cho cảm tưởng như thân thể phủ một lớp da xanh đậm, nhưng cố nhiên là lớp lông cũng làm bằng chất liệu không sờ chạm được. Chúng thuộc về hàng tinh linh biển thấp nhất mà tôi biết, không có chút thông minh nào mà chỉ có cảm xúc sơ đẳng thôi, không đẹp mà cũng không dễ chịu. Dù thân hình làm bằng chất đậm đặc tới mức gần như mắt thường thấy được, ta ít có cơ hội thấy chúng vì tinh linh họa hoằn lắm mới thò đầu lên biển. Đôi khi tính tò mò làm chúng đi lên, hay khi thượng cấp chúng gọi cả bầy cùng lên, giống như học sinh đi du khảo, vì mặt biển là nơi xa lạ với chúng. Thường thì chúng lên vào ban đêm lúc sáng trăng, vì tinh linh không thích cảnh ồn ào đi kèm với ánh sáng ban ngày. Chính vào một dịp như thế mà tôi thấy được sinh vật. Tôi hỏi vị thiên thần ở một bãi biển Úc về tinh linh và được ngài giải thích. Nhìn chúng, tôi không thấy thoải mái còn tinh linh nhìn tôi lom lom khó chịu. Rõ ràng chúng không thích người nói chung.
Tổng quát thì tinh linh biển không thông minh bằng tinh linh trên đất liền, nhưng chúng có phần việc riêng rất khó cắt nghĩa, tuy nhiên tôi sẽ ráng trình bầy. Trước tiên, biển cho tinh linh biển cảm tưởng chúng là phần tử của chuyển động nhịp nhàng mênh mông. Cố nhiên là chúng biết về cá, rong rêu và những sinh vật khác của biển, tức mọi biểu hiện của những luồng sinh lực. Như thế nó có nghĩa chúng cảm được một cách tổng quát hay hơi trừu tượng, tình thân thuộc với phần lớn sự sống trong biển. Mục đích chính trong đời tinh linh biển là làm phần việc của chúng, bất cứ là dưới hình thức nào, và ta có thể nói đó là việc chuyên biệt hóa năng lượng, bằng cách thu hút năng lượng mặt trời vào người qua những cơ quan li ti trên thân, rồi tuôn nó vào biển..
Thân thể sinh vật uyển chuyển mềm dẻo hơn, và cũng tạo theo cách khác biệt hơn so với tinh linh đất. Có vẻ như tim là cơ quan đầu não, và tinh linh làm chủ được nhịp đập của tim. Giống như những tinh linh khác, chúng cũng có nhiều trò chơi nhưng trong phần lớn trường hợp, sinh vật hân hoan nhào lộn với sóng biển. Mỗi tinh linh có lòng ngưỡng mộ sâu xa với thiên thần trên chúng, và mong tới dịp gặp ngài, vì thiên thần biển thường triệu tập đông đủ vào ngày rằm. Ấy là biến cố lớn lao trong cảnh sống của sinh vật, vì chúng chưa tiến hóa xa cho lắm.
Dầu vậy những tinh linh này thực hiện một cách vô thức phần việc rất đáng kể cho chính nước biển. Chúng có liên hệ với sự sống trong nước biển y như tinh linh đất đối với cây cỏ. Trong khi sinh vật sau điều chỉnh sinh lực trong từng cây riêng rẽ thì tinh linh biển hoạt động cho cả khối nước, và theo cách ấy, tác động gián tiếp lên sinh vật hữu hình trong biển. Cơ chế được tạo đặc biệt cho loại công việc này, ngoài quả tim đã nói giống như ở các loài tinh linh khác, trên bề mặt cơ thể còn có hàng chục điểm sáng là những tâm phụ nối liền với quả tim. Khi tinh linh di động, các điểm này có sức thu hút và đem sinh lực vào người. Ít nhất có hai sinh lực trong chuyện, một từ ánh sáng mặt trời và một từ nước và tim là nơi trộn lẫn hai dòng này.
Nói về biển thì có những chỗ tương đối cố định với nhau, là trung tâm hay xoáy từ lực vô hình. Cứ cách khoảng vài giờ khi tinh linh thu hút năng lực hỗn hợp nhiều hơn nhu cầu của mình, nó túa chúng qua những tâm phụ trên bề mặt cơ thể, và năng lực được lùa vào xoáy gấn nhất. Nơi đây lực bị đùa quanh và phân phối từ xoáy này sang xoáy khác theo cách cân bằng năng lượng. Tinh linh làm công việc suốt ngày một cách vô thức, và nhờ vậy biển có từ lực, giúp cho các sinh vật sống trong đó. Xoáy từ lực cũng có liên hệ tới bão mà tôi sẽ nói về sau. Ít nhất công việc chính của bé nước là từ hóa những trung tâm này, tinh linh biển trên mặt ngoài khơi cũng làm y việc ấy nhưng có vùng trách nhiệm lớn hơn, vì trong một khoảng biển rộng chỉ có ít tinh linh trụ. Chúng được giao phó việc trông coi loài tinh linh như khỉ đột sâu dưới lòng biển, nhiệm vụ của loài sau này là tuôn ra năng lực đậm đặc.
Nhìn chung thì tinh linh hồ và suối không nhiều như ở biển, ngay cả nơi rộng lớn như Ngũ Đại Hồ, tuy có đông tinh linh hơn. Tinh linh nước ngọt khác hẳn tinh linh biển, mảnh mai hơn và giống người hơn, hòa hợp về màu sắc và chuyển động với vùng của chúng. Trong số các loài này tôi để ý thấy có hai loài chính: loài nhỏ tí sống ở thác nước nhỏ và suối con, cao chừng 20 - 30 cm; loài lớn hơn có thể cao đến 60 hay 90 cm. Loài nhỏ có thân hình và mặt y như người, màu lam ngọc turquoise khi gặp ở suối, và màu như sắc cầu vồng khi gặp ở thác. Mặt nhỏ hình trái tim, cân đối với thân hình, bàn tay và bàn chân nhỏ tí ti, vài kẻ rõ ràng thuộc nữ giới. Đôi lúc chúng thơ thẩn trên bờ. Tinh linh lớn màu xanh hơi đậm hơn, mặt không giống người như loại nhỏ nhưng ít ra giống người hơn tinh linh biển. Nói chung sinh vật có vẻ người hơn qua tóc và mắt, tuy khoàng cách giữa hai mắt không theo tỷ lệ của ta.
Tinh linh nước ngọt này có thân hình mảnh mai, dịu dàng, nhưng không tràn ngập sức sống bằng tinh linh biển. Chúng để ý tới người nhiều hơn, và thích ngó chúng tôi. Giống như tinh linh vườn và tinh linh rừng, chúng thích hát và có thể nghĩ ra những khúc ca hay.
Ao và thác nước có đông đầy tinh linh thuộc loài dễ thương, thân thiện với người, nhất là với trẻ con. Tình thương mến chúng dành cho cá và những sinh vật trong nước, thì giống như nỗi thích thú ta có khi bơi lội hay chơi đùa trong nước vậy. Tinh linh cao chừng 30 - 60 cm, dịu dàng. Bởi nước có nhịp điệu, chúng đáp ứng với nhịp ấy và luôn cả với âm nhạc của ta mà chúng rất thích nghe. Khi ta đàn và hát bên bờ sông, bờ hồ, sinh vật tụ lại thưởng thức say đắm.
Công việc của chúng tương tự như của tinh linh biển nhưng ở mức nhỏ hơn. Vì sống ở biển nhiều, tôi không có mấy kinh nghiệm với tinh linh nước ngọt, nhưng tin là chúng có nhiều nét thú vị nếu tôi có dịp gần gũi chúng nhiều hơn. Chỗ nhiều nước thường có một tâm thức cao chủ trì và tôi đã có lần quan sát kỹ.
Thí dụ như sông Mississippi có một cá tính rõ ràng. Thần sông có niên kỷ rất xưa và đầy uy quyền, tinh linh sông dường như sống lâu hơn so với tinh linh cùng loại, nhưng không xinh đẹp bằng tinh linh ở hồ hay suối trong; tinh linh nước đục không giống người mấy. Sinh vật ở sông Mississippi tràn ngập lòng vui sống yêu đời y như tinh linh biển. Chúng thích cảm nhận ánh sáng mặt trời trên nước. Tinh linh thích giang hồ và thấy như chúng xuôi ngược trên sông, đổi chỗ với các tinh linh khác của sông. Chắc chắn nhờ đi đó đây như vậy mà tinh linh thông minh hơn đa số loài khác. Thần sông với tính đùa nghịch (truyền thống gọi ông là Old Man River) tuy là linh hồn rất già, ảnh hưởng tinh linh làm chúng sống động như mình. Thần rất linh hoạt, dù rất ít khi thành hình, khi xuất hiện coi giống y như quan niệm dân gian có về thần và các sông khác (thí dụ Father Tiber). Tập tục dân gian có nhiều điều đúng thực, vì người thời xưa sống gần thiên nhiên hơn nên biết nhiều về nó hơn chúng ta.
Thần sông là nhân vật đáng lưu ý. Ông cho cảm giác uy quyền mà cùng lúc có lòng vui sống joie de vivre, nhưng niềm vui của thần khi thể hiện có thể gây tổn hại lớn lao cho người. Tình cờ tôi đến sông vào lúc có lụt lớn nên chứng kiến việc làm của thần; nhìn sức mạnh của sông ào ào phủ ngập cả ngàn mẫu đất ta thấy kinh hãi, nhưng thần sông coi đó là chuyện đùa. Thần cảm thấy được tung rộng ra, tự do hơn và ý thức mình cũng biết vài trò ranh mãnh. Lẽ tự nhiên lụt lội và ở mức độ rộng lớn như vầy xảy ra không phải để làm cho thần vui, nhưng bởi thiên nhiên cần tuôn lực, thì tại sao không lợi dụng cơ hội để vui chơi một thể ? Ta cần luôn luôn nhớ rằng với những vị như thần, sống và chết là điều không quan trọng, và ý lại càng đúng với thần sông Mississippi, linh hồn hết sức cổ xưa nên đã thấy hai sự việc này không biết bao lần.
Tinh linh nước nói chung, nhất là tinh linh biển, không chú ý mấy đến người. Con người không khuấy động đời sống chúng vì họ không làm hại được biển cho lắm. Vì thế chúng hòa hoãn với ta khi ta có việc đến với chúng. Sinh vật không rụt rè như tinh linh đất, vì điều kiện sống của chúng không tùy thuộc vào ta như đối với tinh linh đất liền. Tinh linh nước rất hiếu kỳ về chất của mình, cái chứa đựng bao sự sống. Chúng bận rộn chăm lo hàng ngàn hình thái khác nhau của sự sống, đang diễn ra trong biển và trong nước ngọt.
Đối với tinh linh, biển chia ra từng vùng thường khoảng vài cây số, nhỏ ở gần bờ và lớn hơn ở ngoài khơi. Mỗi vùng có một vị thiên thần cai quản, là vì vua của khu ấy. Vài thiên thần không tiến hóa cao lắm, rồi cũng có những vị thật cao cả về mặt tinh thần và vĩ đại về hình dạng. Các ngài hướng dẫn sự sống của tinh linh, và trông coi năng lực ở các xoáy. Tâm thức của thiên thần hay thấy trụ ở một trong các xoáy, lấy đó làm trung tâm và từ đó ngài tỏa năng lực của chính mình, giám thị mọi sự sống trong vùng trách nhiệm. Thiên thần không bắt buộc phải lấy hình hài, nhưng khi muốn ngài có thể làm vậy. Hình hài giống người, luôn luôn tuyệt mỹ như là kiểu mẫu lý tưởng, với hào quang có vô số màu bao quanh thân. Thiên thần rất thông minh, và nói chuyện với các ngài dễ dàng nhiều hơn là nói chuyện với tinh linh, vì các ngài bắt được dòng tư tưởng của ta, còn với tinh linh ta phải nói rõ và tạo hình rõ rệt. Tôi có thể nói rằng vài người bạn thân thiết nhất của tôi là thiên thần biển, và thiên thần trên đất liền. Các ngài luôn có đó và luôn vui mừng khi gặp bạn, thế nên thiên thần làm bạn đáng tin cậy hơn người. Vài nơi như hải cảng tuyệt đẹp có thiên thần cực kỳ mỹ lệ trông coi, nhưng các vị nằm ngoài tầm của chương này.
CHƯƠNG X
Tinh Linh Lửa
Có hai loại tinh linh lửa. Loại nhỏ cao từ 8 - 60 cm không có dạng người mà chỉ là những nét mờ mờ như sương. Chúng giống như ngọn lửa nến và chưa thuộc vào hàng tinh linh thực thụ. Hình đôi khi như côn trùng, cắc kè hay bọ hung. Tinh linh xuất hiện trong những đám lửa nhỏ, thành hình do nhịp điệu của lửa, là làn rung động mạnh mẽ nhất do âm vang của lửa gây nên, âm giống như lời kinh cầu, ngưng khi lửa tàn. Những điều này chỉ áp dụng cho loài thấp, hiện diện ở ngọn lửa nhỏ như lửa bếp, lửa trại v.v. Tinh linh lớn cao từ 1,5 đến 4 m, sinh vật lớn nhất sống trong núi lửa, hình người ốm nhom dài và mờ dần phía dưới chân. Ta cũng thấy chúng khi có cháy rừng, đám cháy càng to bao nhiêu thì tinh linh càng lớn bấy nhiêu. Lửa thu hút các tinh linh lớn từ xa đến, mà không phải làm chúng thành hình như loài tinh linh lửa nhỏ, vì có những nơi là trung tâm cho các sinh vật này, và chỗ nào có lửa cháy thì từ trung tâm chúng được gọi tới nơi đó. Như vậy tinh linh lửa đi nhiều nơi hơn các tinh linh khác, nhưng đặc biệt là chúng không đông như các loài khác.
Tinh linh lửa thông minh hơn tinh linh vườn rất xa, nhưng do bản chất chúng cách biệt với loài người hơn khi so với tinh linh đất. Thực vậy, chúng hoàn toàn không liên hệ chi đến người. Nếu tinh linh ảnh hưởng đến ta thì nó như là một tác nhân của thiên nhiên, hành động vô thức. Điểm chung duy nhất giữa loài này và con người là chúng yêu âm nhạc, và chúng sẽ tụ lại đặc biệt khi ta chơi đoạn nhạc lửa trong vở nhạc kịch The Ring của Wagner. Vào thời xưa, có lẽ con người có thể sai khiến tinh linh lửa trong đời nên giữa hai bên có mối liên hệ, nhưng tình cảm của chúng đối với người luôn luôn hờ hững. Phần lớn những tinh linh khác ít ra cũng hiếu kỳ về người, nhưng tinh linh lửa thì không, loài người không hấp dẫn chúng tí nào cả. Tinh linh khác với chúng ta, và thực ra có phần nguy hiểm cho ta trong nhiều trường hợp. Ta cần nhớ kỹ rằng chúng có khả năng khêu gợi những tình cảm mãnh liệt. Những tình cảm này không xấu trong bản chất tinh linh, nhưng nơi con người thì nguy hiểm vì chúng có sức khơi động mạnh mẽ. Con người có thể sai khiến được các tinh linh lửa, nhưng để chúng chế ngự ta là chuyện không hay chút nào, vì vậy tốt hơn hết ta không nên tìm cách liên lạc với chúng, trừ khi biết chắc ta đang làm gì.
Thiên nhiên không hẳn sợ tinh linh lửa, nhưng rất nể vì chúng. Tuy lửa đóng vai trò hủy hoại, nhưng sự tàn phá không bao giờ là tình cờ hay ngẫu nhiên như đa số người nghĩ. Ngược lại, nó được hướng dẫn sáng suốt. Tinh linh lửa đóng một vai trò quan trọng trong thiên nhiên, nhưng chúng thông minh hơn tinh linh trung bình vì có liên hệ chặt chẽ với thế giới thiên thần. Ta thấy chúng trong lòng quả đất, nhưng sinh vật không ở một chỗ. Chúng đi tới lui thường trực từ đó lên mặt đất. Sinh vật này khác hẳn với các tinh linh đã nói đến trước đây.
Khó mà truyền cảm sức sống của lửa trong thiên nhiên, nó vừa phá hủy vừa kiến tạo. Lửa thực sự kỳ bí về nhiều khía cạnh với tất cả chúng ta, nhưng tinh linh lửa thông minh khác thường theo đúng nghĩa của chữ. Nói chung, những dịp chính mà ta có thể quan sát tinh linh lửa là những biến cố khủng khiếp trong thiên nhiên, nên có lẽ tốt hơn ta hãy tả lại vài cảnh như vậy. Núi lửa cố nhiên là cảnh vĩ đại không phải chỉ ở cõi trần mà cả ở cõi vô hình. Đó là nơi chất chứa năng lượng cuồn cuộn và hoạt động mãnh liệt. Ở đây tinh linh lửa cao chừng 2,10 tới 4 m, mặt như mặt người nhưng làm ta nhớ lại nhân vật Mephistopheles quỉ quái trong chuyện Faust của văn hào Goeth, tuy vậy không phải vì chúng cho cảm tưởng là kẻ ác. Ngược lại, sinh vật trông xinh đẹp là khác. Chúng ló mặt ra khỏi đám lửa còn thân hình chìm sâu không có nét rõ ràng, tan loãng vào chất của núi lửa.
Kế đó là các đại thiên thần của lửa, không nhiều mà chỉ có vài vị trong núi, mặt người đẹp đẽ lộ nét xa vắng nghiêm nghị. Trọn khu núi chuyển động, nhày múa theo nhịp vô thanh, vì các sinh vật làm ra nhạc khi chúng di động. Núi lửa là cửa ngõ cho phần năng lực vĩ đại chất chứa trong lòng đất thoát ra, cái năng lực chưa tôi luyện, cần thiết cho việc kiến tạo của thiên nhiên mà ta chưa rõ. Những núi lửa mà tôi thấy ở miền East Indies đang hoạt động; tôi có dịp quan sát một ngọn ở đó nhiều năm và làm quen được với thiên thần của núi, vị này có hình dạng khổng lồ và diện mạo đẹp đẽ. Vẻ trang trọng của ngài làm ta cảm kích, khi thiên thần làm chủ và hướng dẫn những lực khủng khiếp ở cõi thanh, song song với những lực kinh khủng không kém ở cõi trần khi núi lửa bùng nổ. Nghĩ cho cùng, chỉ có bề mặt địa cầu nuôi dưỡng sự sống, mà bề mặt ấy lại thật mỏng manh. Sâu trong lòng địa cầu hàng trăm dặm không còn sự sống vật chất bình thường, nên khi trữ lượng ào ạt của năng lực tinh linh tràn ra ngoài, nó cần được hướng dẫn. Vị đại thiên thần, cùng những vị khác và phụ tá của các ngài chăm lo việc ấy.
Năng lực tinh linh không phức tạp, tinh linh lửa nhỏ có lực thô sơ và thiên thần chuyển hóa làm nó thanh bai hơn. Sinh vật cần để dòng lực đi qua người, vậy nên việc này cần phải chú ý. Thiên thần chủ trì đương nhiên có nét uy quyền và nghiêm nghị, vì ngài nắm trong tay phần việc to lớn khó khăn. Nhưng đồng thời việc làm thật hứng thú, sinh vật say mê theo dõi chuyển động, âm nhạc và lửa cháy bùng, cho ra hình ảnh đẹp dạ. Có lần tôi đến sát một núi lửa ở Java, núi nhỏ nằm trong sa mạc chơ vơ. Khi xưa con người đã tới đây cúng vái, nên tinh linh lửa để ý tới người khi chúng trồi lên mặt hơn là tinh linh lửa ở những nơi khác. Chúng ngắm đoàn của bọn tôi và tìm cách khêu gợi để chúng tôi đáp ứng, ráng cho người cảm giác sống động như chúng có. Chuyện mang lại kết quả không hay, vì xét ra cảm xúc của người rất khác cảm xúc của sinh vật, vì vậy tinh linh có thể phản ứng theo cách không dễ chịu.
Với trận cháy rừng, ban đầu thường chỉ là ngọn lửa nhỏ với sinh vật giống cắc kè là tinh linh lửa tạm thời, như bất cứ ở ngọn lửa nào. Nhưng dần dần khi ngọn lửa to hơn và nhiều cây bốc cháy, nó gọi những tinh linh lớn hơn và chúng ồ ạt kéo tới với nét mặt hớn hở hân hoan, nhày múa phóng mình vào lửa, lẫn lộn với các sinh vật nhỏ đã khiến lửa bùng cháy lúc đầu. Đa số tinh linh rừng bỏ chạy khi có lửa. Chúng ráng hết sức giúp thú vật và những sinh vật khác, nhưng không làm được mấy nên tinh linh chạy ra xa chờ tới khi lửa bớt. Cây lớn mà bắt lửa thì cũng bị cháy rụi, nhưng tinh linh cây rút thật sâu vào thân cây, tìm cách bảo vệ sự sống của cây.
Đương nhiên chúng không coi tinh linh lửa là bạn, nhưng trong thế giới của tinh linh, chúng không có cùng cảm giác thảm họa như ta, tuy tinh linh rừng cũng cảm thấy buồn với cây cỏ bị cháy rụi, vì chúng đã đổ vào đó bao công trình và tình thương. Bởi chúng rất thực tế, sinh vật bắt tay ngay vào việc để gầy dựng lại, cố gắng hơn vì khó mà khơi sự sống còn lại trong đống tro tàn. Tinh linh đi tìm những mầm sống còn thoi thóp và nuôi dưỡng chúng. Khi lửa tàn dần, tinh linh lửa rút đi. Chúng đi đâu ? Câu trả lời có đôi phần thú vị.
Lúc đến thăm Grand Canyon ở Arizona tôi thấy một cảnh tượng độc đáo. Ở đó có vị thiên thần chẳng những to lớn lẫm liệt, mà lại là vị cao quí và tuyệt hảo về mặt tâm linh, xứng đáng về mọi mặt với nơi này. Thân thể ngài là vùng Canyon - hẻm núi, có nghĩa tâm thức ngài bao trùm mọi chỗ của hẻm núi, một vùng rộng 21 km, ngang 320 km và sâu hơn 20 km. Ngài hòa tâm thức vào khắp vùng và ấp ủ nó trong lòng. Khi hiện ra, ngài có hình người thật uy nghi, khôi vĩ, cao chừng 10 m, mắt và tóc sậm màu, có y phục là ánh sáng rỡ bao phủ. Ngài có những thiên thần thấp hơn phụ tá, nhưng ngài chỉ huy mọi việc.
Dưới ngài là một số tinh linh tôi chưa thấy nơi nào khác. Chúng cao chừng 60 - 90 cm, có gương mặt lạ lùng, với ánh sáng mầu tím và lửa nhảy múa bao phủ thân. Đa số ngụ dưới mặt đất còn những sinh vật khác bay khắp trong hẻm núi, vọt lên cả bên trên thành vực. Một loại tinh linh khác nhỏ hơn, chỉ chừng 30 cm, màu nâu sọc đỏ, gương mặt và thân hình nửa giống người. Chúng sống trong lòng đất và hơi giống gnome, lưng khòm như ông lão bé tí. Mặt chúng nhọn đến nỗi ta có thể tưởng lầm là có râu. Sâu trong đất dưới đáy sông còn một loại tinh linh lửa lớn, sống trong những nơi mà ta có thể gọi là hang lửa.
Nơi này rõ rệt là trung tâm cho năng lực tinh khôi trong lòng đất, giống như núi lửa nhưng khác ở mục tiêu. Vị thiên thần chủ trì hẻm núi có tính chất này và tỏa ra năng lực của chất lửa. Ngài trông coi công việc đang diễn ra ở khắp vùng hẻm núi, bởi tự mình đồng chất với nó khiến thiên thần hiểu và bảo vệ được vùng. Còn công việc thì do những thiên thần khác làm, họ có hình dáng tương tự như thiên thần núi lửa, nhưng thanh nhã hơn và cao cấp hơn.
Ta thấy các ngài trong hang lửa đã nói, những đường suối năng lực sáng chói chảy trào lên qua ngõ ngách trong cơ thể vị đại thiên thần hẻm núi. Chúng túa ra đủ mọi phía của vùng và xa hơn nữa. Những dòng này chỉ là phần dư trội của năng lực được dùng trong các hang lửa. Ở đó các thiên thần lửa khơi dậy năng lực lửa trong lòng trái đất, cho phép nó xoáy trong thân thể các ngài rồi tuôn vào kho dự trữ chung. Từ đây thiên thần rút lực ra khi phụ vào việc tạo hình cho các tinh linh lửa hoặc lớn hoặc nhỏ. Khi làm công việc ấy, thiên thần tạo nên một nhịp bất ngờ đặc biệt mà người Ấn gọi là câu chú - mantra, các ngài đem sự sống vào hình đã tạo và làm sống động. Bằng cách ấy tinh linh lửa ra đời. Thường thường, hai thiên thần chuyên tâm vào việc tạo tinh linh lửa nên sinh vật chính là tinh chất của lửa. Chúng không ở đó mà đi tới những nơi trên mặt địa cầu, hay bên dưới nơi có dòng dung nham, hay có trận cháy khủng khiếp xẩy ra. Chúng là linh hồn của sức nóng ghê hồn sâu trong lòng đất, và chỉ thấy sung sướng nơi nào có lửa cháy to.
Tôi không thể nói sao để truyền cảm giác sống động, bừng bừng phát ra từ những lò tạo hình kỳ lạ dưới lòng đất. Trọn khu này hết sức kỳ diệu, tuyệt vời, hút sâu trong ruột địa cầu cũng vẫn có sự sống ! Và thực vậy, nguyên vũ trụ này của ta, tràn ngập với muôn vàn hình thái của sự sống, đầy ắp những chuyện kỳ thú lạ thường.
CHƯƠNG XI
Tinh Linh Không Khí
Khi tìm hiểu về tinh linh không khí, ta cần phân biệt hai loại nói chung. Một loại đông nhưng hỗn hợp nhiều thứ có thể gọi là tinh linh không khí đích thực, vì không khí là chất liệu duy nhất của chúng, loại kia to hơn, là một nhóm lớn khá dồng tính và không phải chỉ giới hạn vào không khí mà thôi. Loại sau không phải là tinh linh không khí theo đúng nghĩa mà là một nhóm những sinh vật tiến hóa khá cao, trải qua kinh nghiệm từ nước, đất, và cả lửa, nay chúng rời khỏi những chất ấy vì trí tuệ đã vượt qua mức ấy. Tôi gọi chúng là thiên tiên - sylph trong chương này, và sẽ mô tả chúng kỹ hơn ở phần sau, lúc này chỉ cần nói là chúng thuộc về một lớp riêng biệt, có trí thông minh cao, hữu dụng và có nguồn gốc khác.
Tinh linh không khí thực sự có ba loại chính. Do bản chất chúng một phần thuộc không khí một phần thuộc nước. Loại đầu tiên mang thể mây và sống trong mây, hình dạng chúng thay đổi nhưng nói chung người to lớn, cấu trúc lỏng lẻo, dềnh dàng mà mặt người nhỏ, tóc mỏng như thả dài ra sau. Da thịt như mây. Thay vì chơi ‘diện áo’ như tinh linh của đất, trò chơi và cách tăng trưởng của vân tiên là nắn mây thành đủ hình dáng. Vân tiên là điêu khắc gia trong thế giới tinh linh, chúng cảm thấy đạt được thành quả khi cùng mây trôi lơ lửng và nhào nặn mây. Chúng nhiệt thành nặn theo lời đề nghị của tinh linh bạn, và nếu coi đám mây như vật sống động thì ta có thể chơi trò tưởng tượng mây thành hình muốn có, nhất là đối với các em nhỏ.
Khi ta nghĩ mạnh mẽ về tinh linh trong mây, nó đáp lại trò chơi này và cố gắng tạo nên hình ta muốn có. Bắt chúng phải theo ý ta là điều vô ích vì vân tiên không màng đến quyết tâm của ta, nhưng chúng ưa thích chơi đùa. Tinh linh không thông minh lắm nhưng đóng vai trò quan trọng trong thiên nhiên, vì chúng nắm quyền quyết định trong việc tạo những đám mây nhỏ, cùng giúp tích lũy những đám mây lớn để làm mưa. Khi mây rã, tinh linh rút về hồ trên núi, sương mù và ra biển. Sinh vật rất dễ thương và dường như tinh linh không khí nào cũng vậy. Có lúc vân tiên có màu phấn tiên thanh nhẹ bao quanh, và khi chúng lượn tới lui chơi với nhau, chúng cho ra cảnh tượng đẹp mắt.
Tinh linh chăm chú trong việc nhồi nắn mây, như đứa trẻ để hết tâm hồn vào việc xây lâu đài bằng cát hay gỗ vậy. Chúng cũng thích cảm giác nương theo gió sà xuống trong cơn mưa có sấm sét mùa hè. Tinh linh mây đặc biệt thích cảnh hoàng hôn và bình minh, vì mặt trời chiếu qua mây của tinh linh tạo nên cảnh sắc yêu kiều. Nếu ta biết rung động trước một buổi chiều tà nên thơ, thường khi chúng cố gắng đặc biệt để làm cảnh tượng diễm lệ hơn nữa. Tôi đặc biệt nhớ cảnh hoàng hôn của miền nhiệt đới đông phương thuở bé, khi ấy tôi mê say nhìn trời theo dõi sự biến ảo của mây và tìm cách tiếp xúc với tinh linh mây. Tôi vẫn còn thích thú quan sát tinh linh và các trò của chúng, nhưng sau nhiều năm quan sát tôi vẫn không hiểu được sự liên hệ phức tạp của tinh linh với mưa, tuyết và hiện tượng tương tự trong thiên nhiên.
Có lẽ tinh linh không khí đặc biệt nhất là loại có liên quan với bão. Chúng nhỏ người, chừng 1,20 - 1,50 m nhưng hình dạng rõ nét và xinh đẹp. Thân hình cân đối theo tiêu chuẩn của người, khuôn mặt hẹp kỳ lạ, phủ quanh là dòng suối tóc. Màu chính của tinh linh là màu bạc của cây bạch dương có lẫn lóe sáng của xanh nhạt và tím. Thường thường lúc nào cũng có vài tinh linh không khí trên trời, vì bao giờ cũng có gió hiu hiu, nhưng mối liên hệ giữa chúng và gió thì không mật thiết như của vân tiên với mây. Chúng ít khi xuống gần mặt đất mà thường hay bay thành nhóm đông trên cao.
Nhưng khi gió thổi mạnh thì chúng bay là là xuống mặt đất hay biển. Tinh linh có óc thông minh cao độ và trên thực tế, có bản tính khá gần với thiên tiên. Có thể chúng là nhóm phong tiên đặc biệt liên kết với gió như sẽ nói ở chương về bão. Tinh linh cuồng phong chịu sự điều khiển của thiên thần giống như các tinh linh khác. Thượng cấp của chúng là những thiên thần liên quan với bão, và khi trận bão sắp xẩy ra thì tinh linh tụ hội lại làm việc. Mưa giông là cao điểm trong đời của tinh linh mây, còn bão là nỗi vui lớn lao của những tinh linh đặc biệt này. Chúng nhào lộn trên đỉnh khu rừng trong gió, lướt trên mặt đất, còn thường thì chỉ thấy chúng trên các đỉnh lớn nhất của những rặng núi cao. Chúng là thượng cấp của vân tiên và điều khiển chúng.
Ở độ cao tít mắt ta có thể thấy loại tinh linh không khí chót mà tôi biết được đôi điều. Ấy là những quái vật khổng lồ, như rồng trôi nổi. Khó mà ước lượng được chiều dài, chỉ nói là sinh vật to gớm ghê, thân như có vẩy làm ta nhớ lại con rồng truyền kỳ của người Trung Hoa với đầu lớn, thân dài có đuôi, mắt to. Tinh linh có đủ màu rực rỡ, sắc đậm. Tôi không rõ phận sự chúng là gì, trí thông minh còn thấp nhưng dù vậy chúng là trung tâm năng lực và năng lượng nào đó, có tính điện. Tinh linh trôi lờ lững trên trời ở một độ rất cao, trên hơn bất cứ đám mây nào và có lẽ chúng di chuyển rất nhanh. Tinh linh bão rút năng lượng từ những con rồng này dùng cho mục đích riêng của chúng. Nói nghe có vẻ phi lý, nhưng thực tế thì sinh vật giống như những con bò thời tiền sử khổng lồ, đi khắp nơi và được hướng dẫn vào những mục đích có liên quan đến năng lượng chúng tồn trữ. Chúng không hề xuống thấp hơn mà ở nơi cao hơn cả những trận bão. Tinh linh đáng được chú ý vì chúng kỳ lạ nhưng tôi không biết nhiều về sinh vật này.
Chuyện ‘The Horror of the Height’ của Conan Doyle gợi ý về những con vật này. Khi có một sinh vật như vậy bay ngang qua đầu, ta có thể liên lạc với nó nhưng ngoài cảm giác tổng quát, tôi không thể bắt được tư tưởng hay tình cảm nào hồi đáp trực tiếp từ chúng. Dầu vậy thiên thần bảo tôi rằng những con rồng này, chính yếu được dùng như bồn dự trữ năng lượng cho tinh linh và thiên thần rút ra khi cần để làm việc, và do đó chúng ảnh hưởng đến thời tiết phần nào.
Tinh linh mây dường như một phần thuộc về nước, còn những con rồng đích thực là tinh linh không khí và dĩ nhiên tinh linh bão có bản chất đúng là không khí. Nhưng sinh vật đặc trưng nhất cho không khí là thiên tiên - sylph.
Đó là sinh vật cao cấp nhất ở bất cứ nơi đâu, rất xinh đẹp làm ta muốn ngắm và biết về tinh linh. Thân thể và đường nét tuyệt mỹ như người, gương mặt xinh xắn như trẻ thơ, khác một điểm là đẹp hơn người trung bình. Bao quanh chúng có lớp sương óng ánh ngũ sắc tuyệt trần, cho cảm tưởng như ngọc mã não opal lấp lánh dưới mặt trời, nhìn không chán mắt. Thân làm bằng chất thanh bai hơn những loài tinh linh khác, nên khó nhìn thấy chúng hơn. Nhưng mặt khác, chúng thông minh hơn hết trong giới tinh linh, khiến nói chuyện với chúng dễ dàng hơn nhiều, vì sinh vật đọc được tư tưởng của ta. Thế nên ta không cần cố gắng nhiều để hiểu chúng, và chúng để hiểu ta. Thực vậy, nhiều kẻ trong bọn có mức hiểu biết cao hơn người trung bình. Một điểm khác là chúng không bị ràng buộc vào nơi chốn hay loại công việc nào, nên tinh linh có thể đi bất cứ nơi đâu chúng muốn, và làm nhiều việc khác nhau.
Ước vọng của thiên tiên là thành thiên thần; chúng đã gần tới mức ấy, và với một chút cố gắng nữa thôi là chúng sẽ cá biệt hóa và thành thiên thần khi tái sinh lần tới. Tinh linh cố gắng đạt điều này bằng cách ở gần thiên thần có mặt quanh chúng, làm việc cho ngài càng nhiều càng tốt, và luôn cả cho con người. Nhờ làm việc và hiểu biết công việc của thiên thần mà chúng đạt tới mức cao hơn. Chuyện thường xẩy ra là tinh linh thành phụ tá cho thiên thần, học làm việc đặc biệt cho ngài. Chúng thực hiện 7 việc chuyên biệt mà ngài giao phó cho chúng, và cũng xử sự như là kẻ đưa tin và phụ tá riêng của ngài.
Như vậy nhiều thiên thần có một số thiên tiên ràng buộc vào các ngài. Bằng cách đó tinh linh học được kinh nghiệm và nẩy nở lòng yêu mến, đó là điều quan trọng. Thiên thần cố gắng khơi mở trọn tình thương tiềm tàng trong những tinh linh theo ngài. Tình cảm giữa hai bên thắm thiết, dịu dàng, vì tinh linh rất đỗi sung sướng khi làm việc cho thiên thần, và thường khi hãnh diện với địa vị của mình. Đúng là tinh linh ‘say đắm' thiên thần là thượng cấp của mình, theo nghĩa thanh khiết nhất và chân thực nhất, mối liên hệ ấy thanh thoát đến mức hầu như không tả được cho con người, vì với ta tình cảm nọ luôn luôn ngụ một ý thu hút nào đó về mặt thể chất. Và nữa, tinh linh ‘say mê’ thường trực, và đó là một điều dị biệt to lớn khác !
Một số thiên tiên làm việc nhiều với con người. Rất thường khi phần việc của tinh linh là giúp những ai bị đau đớn hay khổ não, và cả việc cứu tử người. Chúng là thiên thần hộ mạng cho người, cho họ biết trước chuyện sắp xảy ra. Ta cũng gặp chúng trong bệnh viện, nhất là gần những ai sắp chết. Một trong những niềm vui của sinh vật là giúp đỡ những em nhỏ vừa mới qua đời, thấy bỡ ngỡ, lạc lõng. Tinh linh chơi với chúng, kể những chuyện thần tiên kỳ diệu, chỉ cho trẻ những trò chơi đẹp đẽ và mang em đến những chỗ nên thơ. Chúng hân hoan làm công việc này vì giống như các sinh vật khác trong thế giới tinh linh, chúng yêu quí những gì non dại, trẻ trung hơn hết. Các trẻ nói trên mong đợi tinh linh đến thăm một cách nóng nảy, bồn chồn.
Thiên tiên làm cho bầu không khí thành thế giới yêu kiều. Chúng làm việc ân cần và tận tụy, trung thành một cách thanh cao, nhận thức rất đỗi bén nhạy, tràn đầy hoan lạc, vui tính, óc tinh nghịch cao độ làm tinh linh không khí là loài độc đáo. Nước có niềm vui riêng của nó, lửa kỳ diệu lạ lùng, nhưng chỉ có không khí mới cho những sinh vật cõi trời có hiểu biết sâu sắc lẫn cảm thông với ta, cộng với quyền lực lớn lao của cấp thiên thần.
Một nét khác của tinh linh không khí là nó không có sự sống vật chất làm căn bản. Tính ra thì tinh linh đất và nước liên quan đến sự sống vật chất, ngay cả hòn đá cũng là sinh vật sống động đối với tinh linh, và biển cả thì đông đầy sự sống. Nhưng không khí là chỗ khoáng đãng vô bờ, nên ta có cám giác ít bị nghẽn đọng, ít nguyên tắc và tổ chức. Nhiều khoảng không gian rộng lớn của bầu trời gần như không có sinh vật nào ở. Thiên tiên ngụ chỗ trên không gần mặt đất, lang thang đó đây theo ý; trên cao nữa nhóm nhỏ của tinh linh mây và tinh linh bão thỉnh thoảng xuất hiện, và cuối cùng hàng bao cây số tít mãi ở trên là tinh linh con rồng xa thẳm ít gặp. Không khí là chất luôn luôn và thực tình đồng nghĩa với những gì tự do.
CHƯƠNG XII
Bão Biển
Không lâu sau hai trận bão tàn phá Miami, Florida, trong thập niên 1920, tôi đến nơi này và hỏi vị thiên thần biển tả lại cảnh ấy. Ngài thuật bằng cách cho tôi thấy nhiều hình ảnh trong đầu kèm với cảm xúc. Nói chuyện với thiên thần chỉ gặp một khó khăn thôi, là điều ngài cho là một chuyện thì đối với ta phải hai mươi chuyện là ít, nên cần một thời gian dài để hiểu hết những gì ngài thuật. Ta bị lộn đầu đuôi dễ dàng, vì phải chạy theo ngài để nắm lấy ý tưởng của thiên thần. Khung cảnh mở ra cho thấy vùng Vịnh, nơi cai quản của ngài, nằm trải dài nên thơ trong nắng chan hòa, thanh bình của vùng nhiệt đới. Vị thiên thần và bầy tinh linh của ngài đang làm việc thường lệ, thư thái và hân hoan. Đó là một hay hai hôm trước khi bão tới.
Tôi cần phải giải thích là có một hệ thống đẳng cấp thiên thần nói chung, và trong trường hợp này là đẳng cấp những thiên thần biển. Thiên thần trong các vùng quanh đó ngang hàng với thiên thần Vịnh và bạn đồng sự của ngài. Trên tất cả những vị này là một thiên thần cao cả hơn, trông coi một vùng biển rộng lớn. Như đã nói trước đây, trong mỗi vùng thiên thần cai quản như vùng Vịnh này, có một xoáy được coi là chỗ trụ của tâm thức thiên thần. Đó là một nơi đặc biệt có thể xem như là quả tim của vùng. Những xoáy ấy cũng có tương tự trong không khí mà không nhiều lắm, và thiên thần cũng dùng chúng vào cùng một việc. Bão các loại là sự tuôn tràn của năng lực giữa xoáy không khí và xoáy nước, tức luôn luôn có sự trao đổi năng lực giữa thiên thần biển và thiên thần không khí.
Thực vậy, các thiên thần này nắm giữ trong tay sự quân bình năng lực trong thiên nhiên. Cơ thể các ngài là chỗ trao đổi và chỉ dẫn đường cho lực tuôn. Một nhóm có lẽ gồm ít các thiên thần cao cấp, hướng dẫn đường luân chuyển của thiên nhiên theo cách này ở khắp nơi trên quả đất, giữ cho năng lực thiên nhiên cân bằng. Vị thiên thần vịnh Biscayne ta quen ở đây, là một đơn vị trong màng lưới vĩ đại gồm những đấng cao cả lẫn tinh linh dưới cùng. Những vị thiên thần cao cấp nhất là người chủ động, có quyền hạn soạn ra kế hoạch cho tương lai xa, và biết kỹ từng chi tiết nhỏ nhặt mà ta cho là do Trời làm.
Thỉnh thoảng có quá nhiều năng lực tập trung ở vùng nhiệt đới, thí dụ vậy, và cần phải giải tỏa nó. Kết quả là có bão biển hay một dạng bộc phát nào đó của năng lực trong thiên nhiên. Những biến cố ấy không bao giờ xày ra tùy hứng hay mù quáng, mà tuân theo một trật tự khéo léo như tôi sẽ tả khi trở lại cảnh bão quét ngang qua Miami. Tôi cần nhấn mạnh là tôi nói theo quan điểm của vị thiên thần biển, dựa vào vị trí đặc biệt của ngài, phần mô tả dưới đây là sự hiểu biết của tôi về chuyện ngài trình bầy.
Những đại thiên thần có trách nhiệm giữ cho năng lực trong thiên nhiên được cân bằng, quyết định rằng cần phải thải bớt năng lực trong vùng trận bão càn quét. Các ngài ấn định nơi khởi đầu, vùng bão đi qua nói tổng quát, rồi chỉ định một thiên thần làm bão, chuẩn bị chi tiết và theo dõi công việc từ đầu tới cuối. Công việc bắt đầu do sự kiện là một nơi nào đó bị mất quân bình và cần phải để ý ngay. Vị thiên thần bão, người được chọn giao cho phần việc này cao khoảng 6 - 7 m, làm như có những tia sét bao quanh ngài, và y phục của ngài là điện phủ người. Trông ngài như hình ảnh thần Zeus trong chuyện thần thoại Hy Lạp với lưỡi tầm sét. Gương mặt đầy quyền uy với mắt xám sáng rực, tóc đẹp, có nét oai nghi lẫm lẫm khiến ta kính sợ khi đứng trước mặt quyền lực dũng mãnh đó. Những thiên thần bão như vậy rất hiếm, vì các ngài không thuộc về một vùng đặc biệt nào mà di chuyển quanh trái đất theo bão. Các ngài tiến hóa xa, có sự vững chãi rất mực, nhìn thấu suốt, tính toán chính xác không sai chạy.
Thiên thần vịnh Biscayne cho tôi hay thật rõ ràng là mình hết sức kính phục ngài. Thiên thần bão khởi sự bằng cách chọn hai thiên thần phụ tá cho ngài trong việc này, hai vị có hình dạng tương tự ngài nhưng nhỏ hơn và chưa tiến xa bằng. Thêm vào đó là vài thiên thần khác ngang hàng cùng làm việc với ngài, mà tôi chỉ có thể gọi là thiên thần sinh và tử, vì các ngài đi theo thiên thần biển để lo về những chuyện của bão liên quan đến người, hay ảnh hưởng trận bão trên con người.
Ta có ghi là thiên thần vùng Vịnh nghe chuyền miệng là thế nào cũng có bão, và hình ảnh trong trí ngài về các thiên thần chung quanh hội họp thật ngộ nghĩnh. Ngài cho tôi thấy các thiên thần bàn tán cùng nhau về trận bão sắp tới, thắc mắc nó sẽ ảnh hưởng ra sao cho mỗi người trong bọn. Thiên thần có tính nghệ sĩ dồi dào với máu trào phúng như người Ireland, cảnh thiên thần xúm xít nói chuyện mà ngài vẽ lại rất sống động và buồn cười.
Nhưng khi tin chính thức loan ra thì khung cảnh khác hẳn. Trước tiên vị thiên thần bão cho các thiên thần không khí và biển nằm ở nơi phát sinh ra bão biết về chuyện này. Ngài ra chỉ dẫn cho các vị sửa soạn trận bão bằng cách thu góp lực vào mình, và sẵn sàng thải ra khi thời điểm tới. Ngài cũng cho họ biết giờ nhất định mà ngài đã ấn định trước đó vài tiếng; cùng với lịnh cho cảc thiên thần ở nơi sinh ra bão, ngài phát ra một làn sóng thông báo cho tất cả thiên thần nằm trên đường đi của bão, lộ trình mà ngài và các bạn đồng sự đã chọn. Tin chuyền đi bằng cách thiên thần của nơi bão sẽ bắt đầu báo cho thiên thần nơi kế tiếp dọc theo đường bão sẽ đi qua, và cuối cùng thiên thần Vịnh của chúng ta được tin rõ rệt từ ‘Trung Ương’. Lập tức ngài bắt đầu ngay việc chuẩn bị dưới sự giám sát của thượng cấp trong vùng, vì thông báo cho hay chỉ còn vài giờ nữa là có bão. Thiên thần triệu tập buổi họp tinh linh đông đảo, giải thích việc gì sẽ xảy đến cho chúng theo cách mà sinh vật có thể hiểu được. Sau đó ngài thu năng lực vào xoáy, tích lũy nó. Vị trí của ngài quan trọng trong kế hoạch chung, vì ngài ở ngay bờ đất liền, ngay cả những thiên thần ở vùng bên cạnh ngoài biển cũng tuôn năng lực vào ngài. Khi sắp tới giờ đã định, thiên thần tăng cường việc chuẩn bị, càng lúc càng gia tăng cường độ mạnh mẽ hơn. Ta hãy rời ngài chốc lát và trở lại điểm sinh ra bão.
Vào đúng giờ đã định, thiên thần bão xuất hiện cùng với nhóm cộng sự viên của ngài. Thiên thần phát ra hiệu lệnh, vang rền như tiếng kèn thúc quân tuôn đi như lượn sóng, làm rúng động các thiên thần nằm dọc trên đường của bão, suốt từ gốc cho tới cuối đường. Tất cả thiên thần nằm trên đường ấy nối lại với nhau, hòa vào tâm thức của thiên thần biển. Có loại tinh linh đặc biệt về bão, thuộc về tinh linh không khí và tiếng kèn cho ra kết quả khác, là hàng trăm tinh linh loại đó từ bốn phương kéo về. Tiếng kèn khiến các thiên thần thải năng lực ra theo đường đã vạch của bão, đóng góp phần của mình. Lập tức lực được trội thêm do năng lực mà thiên thần biển và không khí ở nơi sinh ra bão thải ra. Và rồi, cơn bão với cái tâm gồm vị thiên thần bão, và các thiên thần cùng hàng ngũ tinh linh bao quanh ngài như quả banh lửa khổng lồ, càn quét theo lộ trình đã vạch. Mỗi khi bão đến gần xoáy không khí hay xoáy nước, công việc sửa soạn nơi đó lên tới cực điểm, và lúc vị thiên thần bão thực sự đến, năng lực dự trữ ở xoáy được phóng thích vào trung tâm bão, như vậy bão tràn đến xoáy kế cuồng loạn hơn và mãnh liệt hơn nữa.
Tinh linh dưới quyền thiên thần Vịnh cũng góp phần mình. Biến cố là dịp cho chúng vui đùa, vút mình lên không lúc tâm bão đi vào xoáy của chúng, thích chí bám vào đuôi bão, để nó kéo đi và đồng thời tuôn ra phần năng lượng nhỏ bé của mình, rồi sau đó nhảy ùm trở lại xuống biển. Vài tinh linh đi xa hơn các bạn, mãi sau mới về chỗ của mình. Đương nhiên sau trận bão chúng có nhiều việc phải làm hơn, nhưng chúng hớn hở đón nhận cái kích thích và cảm giác mà trận bão mang lại.
Thiên thần trên đất bờ Miami đương nhiên cũng biết chuyện sẽ tới, nhưng ngài chỉ đóng vai trò thụ động, vì ngài không thể làm gì để ngăn cản mà cũng hiểu phận mình là phải chịu bão. Ngài không thấy vui vẻ gì, vì tự nhiên là các thiên thần trên đất không thích sự tàn phá thảo mộc, hơn nữa chuyện lại ảnh hưởng đến con người trong trường hợp này. Ta nên nhớ rằng bão tố có thể hoành hành dữ dội ngoài khơi mà vẫn không gây chút thiệt hại nào, còn trên đất liền nó sẽ cho ảnh hưởng khốc liệt, cây cỏ và sự sống nói chung cần được vun bón và mất thì giờ mới hồi phục lại được. Thế nên khi bão vào tới đất liền, thiên thần bão điều khiển công việc hết sức cẩn trọng, vì có liên quan đến nhiều sự sống phức tạp khác. Các thiên thần sinh và tử đi theo ngài ghi nhận chuyện phải làm và phần việc của mình, vì con người cũng bị lôi cuốn vào bão. Nếu không nhìn từ bên trong, ta không thể tin được là có một thứ tự lớp lang làm chủ giữa những xáo trộn kinh thiên động địa ấy, nhưng ta đừng quên rằng không những thiên thần bão là nhân vật cực kỳ khôn ngoan sáng suốt, mà kế hoạch hợp tác, tổ chức và thứ tự là những điều nổi bật của giới thiên thần.
Tự nhiên là thiên thần trên đất liền làm hết sức mình để cứu những gì thuộc trách nhiệm của ngài, nhất là cây cỏ, thú vật. Tinh linh của ngài cũng phụ giúp vào việc ấy bằng cách nhảy vào con vật lạc đường chỗ này, con chim khờ khạo chỗ kia, bất thình lình kích thích bản năng của chúng, làm chúng nẩy sự thông minh mà thường khi không có, và chạy được tới nơi an toàn. Với cây cỏ, điều mà tinh linh chỉ làm được là khuyến khích chúng hãy cố gắng chịu đựng. Trong suốt thời gian bão tố hoành hành, vị thiên thần Miami tuôn ra những làn sóng thêm sự vững lòng cho người và cho tinh linh của ngài.
Thiên thần là nhân vật điềm đạm, to lớn, vui sống vì phong thổ và khí hậu của vùng ngài chăm nom cho đặc tính ấy. Ngài có cảm tình với Miami, vì ngài thích sự kiện là vùng này tăng trưởng sẽ gián tiếp làm mọc thêm nông trại và vườn cây ăn trái, tất cả đều có liên quan đến sự sống, và cho ngài cùng tinh linh cơ hội thử nghiệm. Ngài không thích con sốt mở mang hay phát triển đất bừa bãi, vì nó có nghĩa hủy hoại đất một cách phí phạm, y như việc phá rừng vô ích ở miền tây bắc làm ngài tức giận. Các thiên thần không ngại việc chặt cây sáng suốt, bởi đó là thí nghiệm có tính xây dựng, đóng góp vào sự sống cho toàn thể, cho dù cây cảm xúc vì bị chặt. Bão đối với thiên thần Miami nằm giữa việc phá hoại toàn diện không khôn ngoan của con người, và cái thay đổi có trật tự của thiên nhiên. Nhưng ngài chấp nhận nó tự nhiên vì do thượng cấp làm.
Tinh linh biển vì có năng lượng dư thừa trong người nên chạy tràn lên biển; cơn xáo trộn vật chất đi theo bão ập vào bờ làm nhiều vùng bị đánh bật, tung cát ứ thành đống và rác khắp nơi. Thế nên tinh linh biển có vô số việc phải làm. Phải nói rằng chúng khoái chí lắm vì đó là một thay đổi cho chúng. Chuyện có nghĩa là ở một vài nơi chúng phải chăm lo một vùng rộng hơn, ở chỗ khác lại là một vùng nhỏ hơn, và đều là thay đổi đối với sự thường.
Trong lúc bão kéo dài, tinh linh biển được mang vào bờ, có kẻ đi xa bờ mấy cây số và bởi đó là việc bất thường, chúng coi đó là kinh nghiệm mới mẻ tân kỳ. Vài giờ sau chúng hấp tấp trở về, vì bão đã rời Miami đi sâu vào đất liền, và biển lặng yên trở lại. Những ngày sau đó tinh linh bận rộn tái tạo đường dây liên lạc, và việc chính là tái thiết phục hồi, nhưng nhiều tinh linh biển trở vào bờ giúp thiên thần trên đất liền khôi phục lại sự tăng trưởng. Ngài bị mất một phần năng lượng nên tinh linh biển dễ thương đã giúp hết sức mình, vì chúng thực sự muốn mọi việc trở lại bình thường, cho dù chúng được khích động vui vẻ khi có bão.
Trọn trận bão đi theo đường đã định rồi chậm chạp tàn dần; khi nó giảm cường độ xuống thì thiên thần bão cùng tinh linh dưới rút đi, cho tới khi công việc gọi ngài tới chỗ khác. Từ từ, chầm chậm, mọi việc trở lại bình thường trên đường bão đi qua, dù đương nhiên là phải mất nhiều năm tháng đất đai mới khôi phục lại những gì dã mất mát. Chuyện không tránh được là con người cho rằng tinh linh nước, thiên thần biển và nhất là thiên thần bão xấu xa, độc ác, vì đối với chúng ta các ngài hủy hoại đời sống. Nhưng không phải vậy. Các ngài chỉ hủy hoại hình thể mà không tiêu diệt sự sống bên trong hình hài đó, vì sự sống không thể chết. Lại nữa, thiên thần và tinh linh thực hiện vai trò của mình theo với luật trời.
Con người phá hoại tài sản, giết nhau, và tàn phá thiên nhiên trong lúc chiến tranh, hay vì lợi lộc riêng, và nghĩ thiên nhiên cũng hành động theo cùng một ý. Nhưng thiên nhiên không có óc riêng tư cá nhân. Trọn sự phá hủy đó xảy ra một cách vô tư, và lạ lùng hơn nữa, được thực hiện trong tình thương, vì hàng ngũ thiên thần và tinh linh không bao giờ muốn giết vật gì, và tìm cách cứu càng nhiều càng tốt. Nó khác xa với chiến tranh là cái mà con người muốn tàn phá mọi chuyện. Thiên thần phải tuân theo luật thiên nhiên dù các ngài muốn hay không, đó là công việc của thiên thần trong đời, là bản chất của loài ấy. Cũng như thiên thần không coi sự chết là điều xa lạ không biết, kinh khủng và chấm dứt hoàn toàn như con người hằng tin. Với thế giới thần tiên, cái chết chỉ là sự hủy hại của thân xác, còn sự sống không bao giờ mất bởi nó trở về nguồn phát sinh ra nó. Nó sẽ tái sinh khoác hình dạng mới, thu thập kinh nghiệm mới trong thế giới này, và kinh nghiệm là nét chính của mọi việc.
CHƯƠNG KẾT
Hiện Trạng Ngày Nay
Nhiều năm sau đọc lại bản thảo này khi đã quay sang những chuyện khác hơn, tôi thấy có lại các ấn tượng mà tôi đã viết từ khoảng thời gian trước.
Ngay cả khi trọng tâm nghiên cứu của tôi đã thay đổi trong những năm đó, tôi vẫn tiếp tục giữ liên lạc với các tinh linh và thiên thần đã tả trong cuốn này. Trong tất cả những lần đi xa, chuyện đầu tiên tôi làm là tiếp xúc với thiên thần và tinh linh ở bất cứ nơi nào tôi đến. Nhờ thế tôi có cảm giác hợp nhất với thế giới thần tiên mọi nơi, mọi chỗ.
Khí tôi quyết định xem lại bản thảo và in thành sách, bạn bè đề nghị là thế giới thần tiên hẳn phải đã thay đổi lớn lao từ ấy tới nay như thế giới vật chất của người. Ý đó hẳn là đáng suy nghĩ nhưng tôi không nghĩ thêm về nó, cho tới khi họ đề nghị là tôi trở lại vài chỗ nói trong sách, để xem việc ô nhiễm môi sinh do con người gây ra đã có ảnh hưởng gì cho thế giới thần tiên.
Lẽ tự nhiên tôi không thể quay về nơi thật xa như Úc hay Java, Ấn Độ để so sánh, nhưng tôi có thể tới eo biển hay bờ phía đông của Hoa Kỳ, và tôi đã làm như thế.
Hẳn là việc dầu loang trên biển, rác đem bỏ giữa khơi, khói xe, việc xây cất không ngừng của con người cùng việc khai hoang đất và chiếm chỗ ở của tinh linh, đã gây ra một số hậu quả. Eo biển mà tôi nói tới nằm gần chỗ có người, nhưng nó chạy dài ra biển. Từ bờ ta có thể thấy cả eo và biển cùng lúc. Tôi trở về nơi này vào ngày đẹp trời mùa đông lạnh giá, mười lăm năm trước tôi đã tới nơi này thường xuyên nên bây giờ vẫn thấy nó quen thuộc. Vào mùa hè bãi đông nghẹt người, nhưng vào mùa đông rất ít người chịu đi ra gió. Cái đầu tiên tôi để ý khi sóng đánh vào bờ là có ít bé nước water babies và ít tinh linh hơn, cũng như chúng không theo sóng chạy sâu vào bãi ở lại bờ ngoài xa, rồi đi tới lui giữa những lượn sóng lớn.
Trọn hệ thống năng lực thấy không sáng hay mạnh như trước, đó là mạng lưới năng lực của đáy biển mà tôi đã tả, nhưng giờ sao thấy lạ lùng. Có vẻ như nó bị rách tả tơi ở vài chỗ và do vậy, gây ra sự lỗi nhịp trong việc luân chuyển năng lực nói chung.
Tinh linh gần bờ mà tôi gọi là bé nước vẫn thích chí nô đùa, nhào lộn trong biển, nhưng không nhiều bằng ngày trước. Một điểm khác biệt nữa thấy rõ, là không thấy hiện tượng cộng sinh giữa biển và không khí, hay ít nhất nó diễn ra không hoàn toàn. Ở những chỗ trong biển mà mạng lưới biển và không khí bị hư, luồng năng lực có vẻ như lỗi nhịp. Tôi nghĩ là các bé nước không hiểu và cũng không thể hiểu rõ về tình trạng ô nhiễm. Dường như ô nhiễm của eo biển, tuy luôn luôn có ở một mức nào đó, đã lan ra nhiều hơn trước, đi sâu hơn dưới mặt biển, trong khi trước kia nó chỉ có trên mặt. Dầu loang từ tầu chở dầu bị đắm mới đây không ảnh hưởng tinh linh tại chỗ này.
Chúng biết rằng có thêm nhiều chất dơ, thêm ô nhiễm về mặt vật chất của biển, nhưng chúng không hiểu rõ ràng tại sao lại vậy, và nhìn nhận thật đúng là chuyện có liên quan đến người. Tinh linh vẫn làm việc, nhưng kết quả không đẹp dạ hay hữu hiệu như trước, và bởi vì chúng nghĩ con người có phần trách nhiệm trong đó, chúng không còn lưu ý đến ta như trước. Sinh vật có khuynh hướng là sợ người và muốn tránh né thấy rõ. Nhiều cá và những hình thái khác của đời sống trong biển nay đã di chuyển ra xa khỏi bờ. Tuy tôi thăm biển vào ngày lạnh cóng và mùa đông năm ấy lạnh nhiều, tinh linh vẫn cho rằng việc ít cá và ít sinh vật khác là do con người gây ra, nên cả tinh linh biển cũng không thân thiện với người cho lắm.
Xa tít ngoài khơi chỗ nước sâu, thấy có ít sự sống hơn trước. Từ trong bờ thấy mạng lưới bị rách, mất liên tục cho tới mút mắt. Việc hư hoại này có nguyên do vật chất nên tinh linh chỉ có thể sửa chữa phần nào. Bởi mạng lưới cộng sinh - nơi đâu cũng có và lan trên khắp địa cầu - bị rách, có thể còn những ảnh hưởng về lâu về dài khác hơn cái tôi thấy ở khu vực hạn chế này.
Tinh linh không khí có thể dễ dàng tránh tác động của ô nhiễm bằng cách ngụ ở chỗ cao hơn, nhưng chúng cũng không vui vẻ hơn. Làm như hệ thống năng lực cũng bị yếu kém ngay ở thượng tầng không khí. Sinh vật cũng như muốn tránh né người và không thấy làm việc chống lại ô nhiễm. Tự nhiên là chúng vẫn hoạt động, nhưng có nét khác biệt. Tinh linh thấy làm không xuể, không theo kịp với con người, chúng nghĩ chuyện chỉ là cái mình không sao thích hợp với và hóa ngã lòng. Hình như chúng phản ứng nhiều với ô nhiễm không khí hơn là ô nhiễm nước, vì xa ngoài khơi chỗ nước sâu sự việc khá hơn. Biển ngoài xa tái tạo được, tôi không nói ngoa khi ghi rằng tinh linh hết sức xinh đẹp và giữ bản tính cũ. Và biển vẫn còn tính gột rửa, tẩy gội tuyệt vời. Các thiên thần vì thuộc hàng cao hơn, có hơi xa cách với tình trạng ô nhiễm, nhưng kết quả chung vẫn ảnh hưởng các ngài sâu đậm. Thiên thần chấp nhận ô nhiễm dễ dàng hơn tinh linh. Các ngài cho rằng về lâu về dài, con người sẽ có hành động sửa chữa lại tình trạng, nhưng từ đây tới đó có một giai đoạn nguy hiểm phải qua, một giai đoạn căng thẳng dữ dội, lộ qua áp lực ghê gớm ở cõi vô hình. Ta cũng phải nói thêm là giới thiên thần nói chung có tầm nhìn xa hơn tinh linh, những kẻ làm việc chỉ từ ngày này qua ngày khác mà thôi.
Giai đoạn căng thẳng và mạng lưới năng lực không còn nhịp nhàng, đã thấy rõ qua nhiều chỗ bị mất liên tục gần bờ đã nói. Ô nhiễm ở eo biển đôi khi rất dày, và trong nhiều ngày nó lên tới mức báo động, làm như có một đường năng lực dày khuynh đảo mối liên hệ hỗ tương giữa đất, nước và không khí. Tinh linh và bé nước cố gắng làm đôi điều để lật ngược tình thế, nhưng hiện thời chúng tỏ ra hoang mang và không biết mình có thể làm gì. Thiên thần vì ở xa hơn và nhìn sự việc theo quan điểm rộng lớn, tin rằng tình trạng sẽ được cải thiện, và có vẻ như các ngài chờ đợi con người tự sửa lấy sai sót của mình.
Trong những lúc có báo động về ô nhiễm, tinh linh không khí tránh bằng cách vọt lên cao nơi chúng có tự do hơn, nhưng các tinh linh biển không may ở dọc bờ biển dù có thể đi ra xa ngoài khơi, vẫn không thấy vui ở chỗ ấy. Chúng không thích biển sâu bằng chỗ nông mà chúng đã quen sống. Các tinh linh bờ biển này thực ra liên hệ nhiều hơn với đất, thú vật, cây cỏ và cả người cùng con trẻ và thú nhà của họ.
Chúng vẫn hoạt động như thường, nhưng nhìn chung thấy không liên hệ chi với người, trừ phi cả hai gặp nhau trong rừng, sông suối hữu tình, nói khác đi lúc cả hai cùng thưởng ngoạn thiên nhiên. Không phải là tinh linh không có niềm vui sống, nó vẫn còn đó vì là một phần của bản chất sinh vật. Chúng thấy có mất mát trong sự sống và hình thể của sự sống, nhưng chúng cũng thích thú với nhiều hình thể của cây cỏ vẫn còn hiện diện, và tiếp tục hăng hái làm việc như xưa .
Quả là có ít tinh linh hơn ngày trước, nhưng tinh linh vẫn còn đó nhằm cùng mục tiêu, và luôn luôn làm việc như bao giờ, tuy thành phố có số tinh linh giảm, nhiều khu vườn nhỏ trong thành phố có tinh linh giúp cho cây ở đấy.
Ô nhiễm ở thành phố không phải chỉ là ô nhiễm không khí mà chính con người cũng thấy. Một loại báo động tinh quái hơn là nhà cửa mọc lên như nấm, cơ xưởng, trường học, cao ốc, chúng cư, lấy đất mà tinh linh trước kia đã ngụ. Giống như loài chim và thú hoang, tinh linh bị đẩy lui, và tuy vẫn còn một ít sinh vật trong công viên và rừng được dành riêng, số ấy không nhiều. Chúng cảm thấy rằng con người càng ngày càng lấn chiếm đất của chúng, chừa lại chỗ ngày càng ít cho chúng. Nhiều hóa chất, như thuốc trừ sâu bọ và phân bón có kết quả bất lợi cho công việc của tinh linh, đã được dùng quá nhiều. Chuyện tốt hơn là dùng chất trong thiên nhiên mà tinh linh có thể tác động để ngăn ngừa sâu bọ phá hoại, và biện pháp tốt hơn nữa cho vườn tược là tạo quân bình trong thiên nhiên giữa các loài chim,sâu bọ, rắn mối v.v. Tinh linh không dễ dàng làm việc với phân bón hóa học, nhất là chất tổng hợp, ngược lại chúng hiểu chất thiên nhiên hơn, nhất là những chất mục rữa như phân ủ, cái vốn là một phần của chu trình sống trong thiên nhiên.
Sông hồ ngày nay có quá nhiều chất hóa học và chất tổng hợp, và gây xáo trộn cho tinh linh rừng và tinh linh vườn. Trọn lưu vực một con sông bị ô nhiễm với chất như vậy không phải là chuyện khác thường. Từ đó chúng thấm vào đất, can thiệp nhiều mặt vào sự hòa điệu và chu trình thiên nhiên. Tinh linh rất nhạy cảm với những chuyện như thế, chuyện mà con người coi nhẹ và nhầm lẫn làm.
Nhưng ngay cả khi trọn thiên nhiên biến đổi, thiên thần và tinh linh biết rằng vũ trụ tiềm tàng tính hợp nhất. Chúng là phần tử của một khối linh động và chấp nhận điều ấy. Con người cũng dần ý thức lối suy nghĩ rằng tất cả nằm trong một khối, và càng ngày càng có nhiều hơn việc tham thiền cùng hợp tác với thế giới thần tiên. Mối dây kết hợp giữa hai loài đang được tạo, và sẽ trở thành là mẫu mực của tương lai.